Quê Choa Plus - Thảm hoạ môi trường Minamata nằm phía tây đảo Kyushu, cực nam Nhật Bản, là một điển hình thế giới về nhiều phương diện. Minamata từ một địa danh trở thành tên gọi của một chứng bệnh do nhiễm độc kim loại nặng từ chất thải hoá học xả vào nguồn nước. Trong lịch sử nhân loại và lịch sử Nhật Bản, đây có thảm họa khủng khiếp do thủy ngân gây ảnh hưởng có thể so sánh với thảm họa hạt nhân ở Hiroshima hay Nagasaki.
Minamata là một thảm hoạ môi trường kéo dài hơn 59 năm , từ năm 1932 – 1997 (từ khi xả thải đến khi hệ sinh thái biển phục hồi), nhưng hệ quả bi đát của nó vẫn tồn tại đến tận ngày nay và là một trong bốn chứng bệnh lớn nhất tại Nhật do ô nhiễm chất thải hoá học gây ra.
Minamata cũng là một án lệ môi trường điển hình với nhiều vụ kiện kéo dài từ năm 1959 tới tận hôm nay.
Minamata cũng là một điển hình cho thấy vai trò của chính quyền khi chọn lựa giữa quyền lợi cộng đồng và quyền lợi của nhóm thiểu số.
Một giám đốc của Chisso đã từng là Thị trưởng của thành phố Minamata. Công ty Chisso càng có ảnh hưởng tới khu vực và người dân càng bị phụ thuộc vào sự phát triển của Chisso. Chisso đã là một trong những công ty góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng nhanh chóng của Nhật bản sau chiến tranh thế giới lần 2 . Từ 1912-1926, nước biển bị ô nhiễm do nước thải của Chisso đổ ra đã gây nên một số vấn đề môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, từ năm 1932-1968, công ty Chisso tiếp tục sử dụng thủy ngân hữu cơ là chất xúc tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo. Tất nhiên trong quá trình sản xuất, methyl thủy ngân đã được sinh ra và cứ được đổ thẳng xuống biển mà không qua bất kì một sự xử lý nào . Thậm chí sau khi công ty Chisso biết rõ chính những nước thải của công ty họ gây nên căn bệnh Minamata, nhưng công ty vẫn không ngừng quá trình sản xuất của mình. Trong lần xét xử đầu tiên về căn bệnh Minamata, thái độ thờ ơ của Chisso đã bị chỉ trích kịch liệt .
Ngay từ năm 1908, khi tập đoàn Chisso mở nhà máy ở Minamata nước thải đã xả thẳng xuống vịnh và vùng biển quanh ngôi làng 10.000 dân này. Thiệt hại cho ngành ngư nghiệp là không thể tránh khỏi và hợp tác xã ngư nghiệp Minamata đã hai lần đòi Chisso bồi thường trước khi căn bệnh nhiễm độc thuỷ ngân bùng phát .
Sau các thương lượng trực tiếp vào năm 1926, Chisso đồng ý trả cho hợp tác xã khoản “tiền thông cảm” là 1.500 yen - khoảng 704 USD theo tỷ giá đương thời . Dùng thuật ngữ “tiền thông cảm” là cách Chisso tránh né nhận trách nhiệm gây thiệt hại và ngăn ngừa những khoản bồi hoàn về sau bằng cách thêm vào thoả thuận là không bao giờ kiện nữa. Kiểu chối bỏ trách nhiệm và những điều kiện ràng buộc của Chisso cứ tái diễn suốt bao lần đàm phán với ngư dân Minamata trong khi chất thải độc hại vẫn không ngừng xả xuống biển.
Đến năm 1943, Chisso ký kết với ngư dân một thoả thuận khác chấp nhận thông cảm 152.500 yen cho các thiệt hại ngư nghiệp trong quá khứ và tương lai, m à tính chất bất bình đẳng của thoả thuận này lộ rõ trong các điều khoản.
Năm 1956 là năm cư dân địa phương bắt đầu biết đến hội chứng bệnh lạ ở Minamata. Không còn là một ngôi làng nữa, Minamata giờ đây đã là thành phố với 27.000 dân. Nhà máy Chisso tuyển dụng tới 60% lực lượng lao động của Minamata. Hàng loạt người dân lâu nay ăn cá không biết có nhiễm độc bỗng phát sinh những dấu hiệu kỳ lạ. Bệnh nhẹ thì á khẩu, đi đứng khó khăn, co giật. Những trường hợp cực độ có biểu hiện phát điên, tê liệt, hôn mê và chết sau vài tuần phát bệnh.
Đến lúc này thì lượng tôm cá đánh bắt ở Minamata đã sụt giảm chỉ còn không tới 10% so với trước. Chính quyền tỉnh Kumamoto cố gắng khống chế căn bệnh lạ lây lan bằng cách cấm bán hải sản đánh bắt từ vịnh Minamata nhưng không hề ban bố lệnh cấm đánh bắt. Ngư dân đánh bắt được cá nhưng không thể bán và không hề có chính sách hỗ trợ tài chính nào bồi hoàn cho họ.
Tháng 9 năm 1958, HTX ngư nghiệp Minamata kiến nghị chính quyền tỉnh hãy cấm đánh bắt cá toàn diện để ngư dân được hưởng quyền bồi thường thích đáng theo luật Ngư nghiệp và bộ luật Vệ sinh thực phẩm đương thời của Nhật Bản. Chính quyền không hề có phản ứng gì khác hơn là khuyên ngư dân đừng ăn tôm cá do họ đánh bắt từ vịnh Minamata. Không còn nguồn thu nhập nào khác, nhiều ngư dân không còn lựa chọn nào ngoại trừ ăn những thứ mà họ đánh bắt được dưới biển.
Thực tế, suốt lịch sử thảm hoạ Minamata, việc đánh bắt cá ở Minamata chưa bao giờ bị cấm về mặt pháp lý. Bất kể lệnh cấm bán cá ô nhiễm, mối ngờ vực về tính an toàn của tôm cá khu vực Minamata vẫn lan tràn trong dân chúng địa phương và đến tháng 6 năm 1959 thì nhiều doanh nghiệp buôn bán hải sản phải khánh tận vì không ai mua hải sản nữa. Tuyệt vọng vì chính quyền làm ngơ, hợp tác xã buộc phải điều đình trực tiếp với Chisso.
Ngày 6 tháng 8, 400 ngư dân hợp tác xã kéo tới nhà máy và gặp giám đốc Eiichi Nishida trong bầu không khí thù nghịch. Ngư dân đòi Chisso phải làm sạch vịnh Minamata, lắp đặt các hệ thống xử lý nước thải và bồi thường 100 triệu yen, khoảng 278.000 USD. Đáp lại, giám đốc Nishida đề nghị một khoản “tiền thông cảm khẩn cấp” 500.000 yên cùng một lời hứa sẽ hội ý với chủ tịch tập đoàn Chisso ở Tokyo .
Sáu ngày sau, ngư dân lại kéo đến nhà máy tiếp tục đàm phán. Hai bên không đạt được thoả thuận nào ngoại trừ một chuyến khảo sát phối hợp về thực tế tình trạng ngư nghiệp ở Minamata để làm cơ sở đàm phán tiếp vào ngày 17 tháng 8. Sau chuyến khảo sát này, Chisso thừa nhận không còn khả năng đánh cá ở một số khu vực và đưa ra đề nghị cuối cùng 13 triệu yen - 36.100 USD .
Đề nghị bủn xỉn ấy khiến ngư dân phẫn nộ và nổi loạn. Lực lượng cảnh sát chống bạo loạn của thành phố phải ra tay can thiệp. Nishida và các nhân viên công ty thực tế trở thành con tin ngay trong nhà máy. Chỉ đến khi thị trưởng Todomu Nakamura đồng ý làm trung gian hoà giải giữa hai bên tranh chấp thì ngư dân mới rời khỏi khu vực Chisso.
Hội đồng hoà giải do thị trưởng Nakamura lập ra vào ngày 26 tháng 8 lại đưa ra phán quyết rất thiên vị Chisso. Theo đó, công ty này sẽ trả 20 triệu yen (55.600 USD) trực tiếp cho hợp tác xã và lập một ngân quỹ 15 triệu yen (41.700 USD) để phục hồi ngư nghiệp. Phán quyết này lại đi kèm với một tối hậu thư rằng nếu một trong hai bên bác bỏ đề nghị này thì hội đồng hoà giải sẽ chấm dứt ngay các hoạt động trung gian.
Ba ngày sau, phía hợp tác xã phản hồi : Nhằm kết thúc nỗi lo ngại của công dân, chúng tôi nuốt lệ chấp nhận .
Minamata là căn bệnh gì ?
Minamata là căn bệnh gây ra khi ăn một lượng lớn cá, sò, h ải sản trong vùng biển bị ô nhiễm nặng vì methyl thủy ngân thải ra vịnh Minamata. Đây không phải là căn bệnh lây nhiễm, hoặc bị di truyền về sau.
Lần đầu tiên căn bệnh này được phát hiện vào năm 1956, và 12 năm sau (1968), chính phủ Nhật Bản mới chính thức thừa nhận, căn bệnh này cho công ty Chisso gây ra vì đã xả thải kim loại nặng thủy ngân khiến cá và hải sản nhiễm độc . Khi methyl thủy ngân xâm nhâp vào cơ thể, chúng sẽ tấn công vào cơ quan thần kinh trung ương. Các triệu chứng là chân và tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, mệt mỏi, ù tai, mắt mờ, điếc, nói lắp bắp…các hành động của cơ thể trở nên yếu ớt. Những bệnh nhân đầu tiên ở Minamata đã bị điên, bất tỉnh và chết một tháng sau khi bị mắc bệnh. Có những bệnh nhân bị mắc bệnh Minamata kinh niên, như là đau đầu, mệt mỏi thường xuyên, mất khả năng vị giác và khứu giác, hay quên…Những điều này biểu lộ không rõ nét nhưng làm cuộc sống của họ trở nên khó khăn hơn. Nhiều người còn bị bệnh Minamata bẩm sinh khi mẹ của họ đã ăn cá bị ô nhiễm methyl thủy ngân khi đang mang thai họ, khiến cho họ sinh ra đã là người tàn tật.
Hàng trăm người không có khả năng nhận thức, sống dự hoàn toàn vào bố mẹ. Nhiều bào thai không thể hình thành, nhiều người con sinh ra chân tay bị co quắp cho đến ngày nay. Ngay cả với những nhà nhiếp ảnh, bệnh Minamata là một kí ức kinh hoàng. Đó là những hình ảnh người bệnh kêu la vì đau đớn, hình ảnh người co giật, sùi bọt mép, bại liệt cả đời sống trên xe lăn. Hay một số bệnh nhân bị mù, điếc, mất trí và mất thăng bằng.
Chưa một giải pháp nào có hiệu quả để chữa căn bệnh Minamata, nhưng các bác sĩ đã cố gắng làm giảm bớt những triệu chứng trên bằng những biện pháp tập luyện, trị liệu. Ngoài những tổn hại về mặt cơ thể con người, còn có những tổn hại về mặt xã hội nữa, chắc hạn có những sự phân biệt đối xử với những người mắc căn bệnh này.
Có bao nhiêu người đã mắc bệnh Minamata ?
Cho đến ngày 30/4/1997, số người trong hai tỉnh Kumamoto và Kagoshima chứng nhận là đã mắc bệnh Minamata lên tới 17 ngàn người. Trong đó có 2.265 (trong đó 1.484 người đã qua đời cho đến 31/1/2003) đã được chính phủ công nhận. 10.625 người được Chính phủ bồi thường. Như vậy, theo Chính phủ Nhật thì có tổng cộng 12.890 người đã mắc bệnh cho đến nay. Tuy nhiên có một số đã chết trước khi căn bệnh này được chính thức công bố, và nhiều người chưa kịp nộp đơn xin chứng nhận thì đã chết. Nhiều người thì không nộp đơn vì nhiều lý do, chính vì vậy mà không thể có được một số liệu chính xác về những bệnh nhân Minamata. Căn bệnh kiểu Minamata đã không chỉ xảy ra ở riêng vùng Minamata.
Thảm hoạ môi trường Minamata không chỉ là chuyện những con cá, tôm cua nghêu sò ốc hến nhiễm thủy ngân độc hại cỡ nào, mà còn muốn nói về hành trình đi tìm chân lý khoa học đã bị trắc trở ra sao bởi kim tiền thế lực, cùng với những nỗi đau mà nạn nhân phải chịu đựng. Câu chuyện bắt đầu thế này…
Một ngày tháng tư năm 1956, một bé gái năm tuổi được đưa tới bệnh xá của nhà máy Chisso ở Minamata. Bé đi đứng run rẩy, ăn nói khó khăn, và bị co giật liên tục. Hai ngày sau, em gái của bé cũng nhập viện với triệu chứng tương tự. Mẹ của hai bé cho biết, nhiều trẻ em láng giềng cũng bị như thế. Bác sĩ cho rằng các biểu hiện này đều liên quan đến hệ thần kinh trung ương, và có thể đó là nạn dịch truyền nhiễm. Các bệnh nhân lập tức bị cô lập, buồn tủi và mặc cảm do sự phân biệt đối xử và xa lánh của cộng đồng địa phương.
Chưa hết, những con mèo bỗng lên cơn, múa may quay cuồng rồi chết. Trên trời quạ rơi xuống đất, mặt biển cá chết nổi lềnh bềnh, dưới biển rong tảo không thể sống…
Sự việc không còn đơn giản nữa. Trường Đại học Kumamoto được mời nhập cuộc. Kumamoto là tỉnh mà thành phố Minamata trực thuộc. Nhóm nghiên cứu nhận thấy, ngoài các triệu chứng kể trên, nhiều người còn bị tê tay, tê chân, không tự cài được nút áo, mắt mờ, tai lãng, khó nuốt, co giật, hôn mê sâu và sau cùng tử vong. Vài tháng sau đó, 40 bệnh nhân được ghi nhận, 14 người trong số đó đã chết.
Nhóm nghiên cứu nhận thấy bệnh nhân đều là những người dân sống ở làng chài ven vịnh Minamata, và đều ăn cá, tôm cua sò ốc hến ở đó. Họ cho rằng, có thể là do ngộ độc thực phẩm, và có lẽ là do kim loại nặng.
Nhưng kim loại nặng thì nhiều loại lắm: đồng, chì, thủy ngân, mangan, arsenic, selenium, thallium. Trong đó mangan bị “chiếu tướng” kỹ nhất vì dư lượng khá cao được tìm thấy trong cá. Tuy nhiên, triệu chứng do ngộ độc các kim loại nặng nêu trên (trừ thủy ngân), không giống với những gì quan sát được nơi những bệnh nhân ở Minamata.
Sự việc cứ lình xình như thế, hết giả thuyết này đến giả thuyết nọ, chẳng đi đến đâu. Gần hai năm sau, tháng ba năm 1958, một nhà thần kinh học người Anh, Douglas McAlpine sau chuyến viếng thăm Minamata, mới nêu ý kiến, các triệu chứng của Minamata rất giống với ngộ độc thủy ngân hữu cơ, và cho lời khuyên, nên hướng nghiên cứu tập trung vào thủ phạm này.
Mẫu tóc của bệnh nhân và cư dân vùng Minamata được đem đi xét nghiệm. Mức thủy ngân ở bệnh nhân là 705 ppm max, và cư dân (chưa phát bệnh) là 191 ppm. Trong khi mức trung bình của cư dân ngoài vùng Minamata chỉ có 4 ppm. Một sự chênh lệch khủng khiếp!
Nghêu sò ốc hến tôm cua cá biển ở vùng vịnh Minamata cũng được đem xét nghiệm. Bùn cặn nơi đây có mức thủy ngân rất cao, nhưng cao nhất là ở vùng xả thải của nhà máy Chisso, và giảm dần khi đổ ra biển. Ở gần miệng cống thải, không thể tưởng tượng nổi, mức thủy ngân tìm thấy trong bùn cặn lên tới 2 kg/tấn. Đây phải xem là “mỏ thủy ngân” rồi chứ đâu còn là chất thải. Chuyện thật như đùa, sau này công ty Chisso cho tái chế đống bùn này để lấy thủy ngân đem bán.
Tập đoàn Chisso là ai?
Chisso là một trong những công ty hóa chất hàng đầu của Nhật Bản, thành lập năm 1908, và có nhà máy đặt tại Minamata. Ban đầu, Chisso chỉ sản xuất phân bón, sau mới sản xuất thêm nhiều loại hóa chất khác, trong đó có chất acetaldehyde, liên quan tới thủy ngân.
Năm 1932, Chisso mới bắt đầu sản xuất acetaldehyde ở mức 210 tấn/năm, và tăng dần lên tới 45.245 tấn vào năm 1960. Công nghệ sản xuất acetaldehyde đòi hỏi phải dùng nhiều loại chất xúc tác, trong đó có sulfate thủy ngân và ôxít mangan. Năm 1951, Chisso đã thay ôxít mangan bằng sulfur sắt (III) để có giá thành rẻ hơn. Tuy nhiên phản ứng phụ trong chuỗi xúc tác này tạo ra methyl thủy ngân, một dạng thuỷ ngân hữu cơ độc hại nhất, độc hơn sulfate thủy ngân nhiều.
Như vậy, Chisso đã bắt xả đầu thải thủy ngân ra vịnh Minamata từ năm 1932. Cùng với sản lượng tăng dần, và tai hại nhất là năm 1951 xả thêm methyl thủy ngân, và cho mãi đến năm 1968 mới ngưng công nghệ “đổi chất xúc tác” này. Thảm họa Minamata bùng nổ từ năm 1956.
Vào thập niên 1950, hiểu biết của khoa học về ngộ độc của thủy ngân và những hợp chất của nó còn hạn chế nhiều, chỉ luẩn quẩn trong phòng thí nghiệm hoặc ở quy mô nhỏ, chứ còn ô nhiễm do xả thải công nghiệp ở diện rộng, rồi ngộ độc qua tôm cá, và chỉ đích danh được methyl thủy ngân là thủ phạm là điều không dễ dàng. Và cũng vì không dễ dàng, nên khoa học mới bị nhập nhằng đổi trắng thay đen.
Và cũng nên biết rằng, những năm 1950, 1960, dân Nhật đang nỗ lực rất nhiều để xây dựng lại công nghiệp và phát triển kinh tế gần như từ số không sau khi thất trận ở thế chiến II. Thế nên thành công của Chisso là niềm tự hào của cả dân tộc Nhật lúc đó. Những nạn nhân đòi hỏi bồi thường và những người liên quan đều bị dư luận Nhật xem là những kẻ phá rối.
Những con tim chân chính vì chân lý
Khi nhóm nghiên cứu của đại học Kumamoto đến làm việc, Chisso đã bỏ mặc họ muốn làm gì thì làm, muốn đoán sao thì đoán, chứ không cho biết công nghệ ra sao, đã sử dụng những chất gì, hay chất nào đáng ngờ nhất. Lý do đây là bí mật công nghệ, mà niềm tự hào dân tộc đã nâng cấp thành “bí mật quốc gia”. Tất cả công nhân viên Chisso đều nhiệt tình che đậy sự thật.
Bác sĩ Hosokawa, giám đốc bệnh xá nhà máy đã làm thí nghiệm bằng cách cho những con mèo lành mạnh ăn thức ăn có trộn nước thải từ Chisso. Hơn 70 ngày sau, những con mèo này biểu hiện triệu chứng múa may cuồng loạn và chết. Chisso ra lệnh ngưng thí nghiệm và không được phép tiết lộ ra ngoài. Thực nghiệm của Hosokawa tuy không chỉ được đích danh thủ phạm là methyl thủy ngân, nhưng cũng chỉ ra được mối quan hệ giữa chất xả thải của Chisso và thảm họa đang xảy ra.
Ô nhiễm thuỷ ngân do con người gây ra: Các nhà máy nhiệt điện (đốt than) chiếm nhiều nhất (65%), khai thác vàng (11%), luyện sắt thép, xi măng, pin, đèn huỳnh quang,… thải thủy ngân ra không khí, ao hồ, sông biển… Thủy ngân dù ở dạng nguyên tố (Hg), hay dạng muối vô cơ, khi đi vào nguồn nước đa số đều bị các vi sinh vật chuyển hoá thành methyl thủy ngân, tích tụ trong rong tảo. Đây là dạng độc hại nhất của thuỷ ngân trong thực phẩm.
Sau này, bác sĩ Hosokawa, trước khi chết vì ung thư đã ra làm chứng trước tòa, và là nhân chứng sáng giá nhất trong vụ kiện đòi đền bù.
Khi biết nhóm nghiên cứu của Đại học Kumamoto sẽ tập trung khảo sát và lấy mẫu ở khu vực cảng Hyakkken, nơi Chisso xả thải. Chisso ngưng xả theo hướng đó, mà cho xả trực tiếp xuống sông Minamata luôn. Hậu quả là ô nhiễm lan rộng hơn đến các khu vực lân cận. Cá chết, người bệnh tràn lan thêm. Bất chấp đến thế là cùng!
Tìm cách đánh lạc hướng khảo sát của Đại học Kumamoto đang nhắm vào methyl thủy ngân, Chisso đã“móc nối” với Bộ Ngoại thương và Kỹ nghệ và Hiệp hội Kỹ nghệ hóa chất Nhật Bản để tài trợ cho những nghiên cứu khác, nhằm chứng tỏ căn bệnh thần kinh đó là do nguyên nhân khác chứ không phải do nước thải của Chisso, và rằng nhà máy Chisso cần thiết tiếp tục hoạt động.
Chưa hết, Chisso còn vận động để chính phủ cắt luôn tài trợ nghiên cứu về bệnh Minamata của Đại học Kumamoto, nhưng nhóm khoa học gia“ngoan cố”của Kumamoto vẫn âm thầm đi tiếp công việc của mình. Năm 1962, giáo sư Irigayama đã tách được methyl thủy ngân từ trong hệ xúc tác thải ra của Chisso khi sản xuất acetaldehyde. Chân lý đã sáng tỏ, nhưng là thứ chân lý hẩm hiu, vùi dập. Cộng đồng khoa học Nhật hồi đó đã nhắm mắt làm ngơ với chân lý methyl thủy ngân.
Chỉ đến tháng sáu năm 1965, một thảm họa tương tự như Mianmata xảy ra ở thành phố Niigata (cách xa Minamata). Hai nhà máy sản xuất acetaldehyde ở đây đã xả thải ra thượng nguồn sông Agano. Hậu quả là cư dân và động vật ở hạ nguồn Agano mắc bệnh và có những triệu chứng tương tự như ở Minamata. Chân lý ngộ độc methyl thủy ngân không thể bị vùi dập được nữa.
Vào giai đoạn đầu khi bệnh bùng phát, chính phủ và công ty đã thiếu thiện chí trong việc tìm ra nguyên nhân đích thực, giải quyết, phòng chống ô nhiễm và bồi thường thiệt hại khiến cho đời sống ngư dân điêu đứng, có người phải đi ăn xin, toan tính tự tử và nhiều người rời bỏ Minamata do tuyệt vọng.
Vì muốn trốn tránh trách nhiệm, Nippon Chisso đã không chỉ từ chối cung cấp mẫu phân tích nước thải mà còn không công khai sản phẩm và qui trình sản xuất với lý do bí mật kinh doanh đồng thời để cho học giả của nhà nước viện dẫn các nguyên nhân thiếu trung thực hòng lung lạc dư luận mà chạy tội.
Tình trạng này dần được cải thiện với sự cố gắng của xã hội dân sự không có vị thế chính trị như bác sĩ Narada Masazumi, nhà văn Ishimurei Michiko xuất thân Minamata, hóa học gia Ui Jun trợ giảng đại học Tokyo, đạo diễn điện ảnh Tsuchimoto Noriaki, nhiếp ảnh gia Kuwahara Fuminari v.v… giúp cho sự thật về bệnh Minamata ngày càng được phơi bày trước ánh sáng khi các cuộc biểu tình và phong trào dân sinh đã lôi cuốn dư luận toàn nước Nhật.
Đã 60 năm kể từ khi những nạn nhân đầu tiên về ngộ độc thủy ngân được phát hiện ở Minamata do xả thải công nghiệp. Nhìn lại để thấy, chân lý khoa học không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Đôi khi nó cũng chịu chung số phận bầm dập như nạn nhân ô nhiễm.
Điều gì đã xảy ra với vịnh Minamata ?
Theo Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), thảm họa sinh thái ở Minamata là một trường hợp điển hình của ô nhiễm kim loại, vốn là một dạng ô nhiễm cực kỳ khó xử lý với hậu quả kéo dài vì kim loại không tự tiêu hủy được. Khi con người ăn hải sản nhiễm thủy ngân, kim loại này cũng tích tụ lại và dần tàn phá hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên.
18 năm sau khi bệnh bùng phát, quyết đinh tái sinh vịnh Minamata mới được đưa ra. Nhằm để ngăn chặn những con cá đã bị nhiễm độc, và bảo vệ người dân, tỉnh Kumamoto đã thả lưới ở cửa ra vào vịnh Minamata vào năm 1974 và vận động việc đánh cá nằm trong vịnh. Công ty Chisso đã mua lại số cá này và đem đi tiêu hủy. Quá trình đánh bắt tiêu hủy này mất 23 năm mới hoàn thành. Lòng vịnh Minamata đã được nạo vét suốt 13 năm và tiêu phí tới 48.5 tỉ yên, những chi phí này do tỉnh Kumamoto đảm nhiệm. Sau khi được cải tạo, chất lượng nước trong vịnh Minamata đã trở thành một trong những nơi đứng đầu trong tỉnh Kumamoto về độ trong và độ sạch, vì vậy mọi người ngày nay có thể bơi lội hoặc chơi các môn thể thao dưới nước một cách an toàn ở đó. Từ khi Chisso ngừng x ả thải, nồng độ thủy ngân trong cá và sò trong vịnh Minamata càng ngày càng giảm xuống. Tháng 10/1994, tỉnh Kumamoto đã khẳng định lượng thủy ngân năm trong các loài cá tại vịnh Minamata đều nằm trong giới hạn tiêu chuẩn quốc gia là 0,4 ppm. Và đến tháng 6/1997, tỉnh Kumamoto đã tuyên bố Minamata trở lại an toàn và toàn bộ những tấm lưới trên được dỡ bỏ. Ngày nay, toàn bộ cá ở trong vịnh đều đảm bảo an toàn giống như những loài cá ở ngoài vịnh. Tuy những tấm lưới trên đã được dỡ bỏ, Nhưng những cuộc điều tra về nồng độ thủy ngân trong các loài cá và sò trong vịnh Minamata đều được tiến hành mỗi năm 2 lần và sẽ kéo dài trong suốt 3 năm tới nữa. Các số liệu về Minamata là bài học rút ra cho không chỉ người Nhật và còn cho nhiều nước trên thế giới về việc môi trường bị tàn phá và sức khỏe con người bị ảnh hưởng trên diện rộng. Chính vì vậy mà căn bệnh Minamata cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa .
Về những bệnh nhân Minamata ?
Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ khi căn bệnh Minamata bùng phát, với các bệnh nhân, 60 năm qua là quãng thời gian của sự khó khăn trong đời sống và gian nan đấu tranh trong những phiên tòa và những cuộc thương lượng. Chưa có giải pháp nào chữa hoàn toàn được căn bệnh Minamata. Phần lớn các bệnh nhân hàng ngày phải đến bệnh viện để chữa trị và phục hồi. Hiện nay khi các bệnh nhân trở nên già hơn, số người phải nằm tại viện hoặc cần sự trợ giúp tại gia đình cũng tăng lên. Trong xã hội đang già đi của Nhật Bản, những bệnh nhân này muốn được sống yên ổn cùng mọi người trong xã hội mà không phải bị lo lắng gì để học cách sống cùng với bệnh tật. Tuy nhiên vẫn có một số định kiến và hiểu lầm về căn bệnh Minamata này vẫn còn tồn tại. Nhiều người đã phải dấu họ là bệnh nhân Minamata, thậm chí ngay với cả người thân trong gia đình. Một số người thì cống hiến cho các hoạt động như kể về giai đoạn trải qua căn bệnh của mình và những bài học cho các thế hệ trong tương lai, hy vọng rằng căn bệnh Minamata sẽ không được phép xảy ra ở bất kì nơi nào nữa .
Hiện nay tập đoàn Chisso có trụ sở ở Tokyo và có ba nhà máy khác ở Chiba, Okkayama và nhà máy ở Minamata. Các sản phẩm chính của Chiso là pha lê lỏng, các chất bảo quản, các chất chống sấy khô, phân hóa học, nhựa thông nhân tạo, và một số sản phẩm khác nữa. Nhà máy ở Minamata có 554 người vào tháng 10/2002 và Chisso vẫn là một công ty quan trọng ở Minamata. Chisso đang có bổn phận phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gây nên căn bệnh Minamata. Từ 1975 việc quản lý của Chisso gặp khó khăn, tỉnh Kumamoto đã phải giúp đỡ công ty Chisso bồi thường thiệt hại từ vốn cho vay của tỉnh đến năm 2000. Tổng cộng Chisso phải bồi thường số tiền là 260 tỉ yên, chính vì vậy Chính phủ Nhật cũng phải ra tay giúp Chisso trả dần số tiền trên từ tháng 2/2002 cho đến khi tự Chisso có thể trả được số tiền nợ trên . Chisso vẫn phải chịu trách nhiệm trong việc trả phí tổn điều trị cho bệnh nhân Minamata và những thiệt hại cho đời sống của họ.
Lời kết
Khi bệnh Minamata xảy ra ở Nhật thì
- Chính phủ và nhà máy gây ô nhiễm đều nói đây không phải lỗi của họ. Ngăn cấm người dân biểu tình.
- Người dân đã làm gì. Họ xuống đường tuần hành với những biểu ngữ
"病気のお金を払ってください”
Trả tiền cho người bệnh đi
”汚水を流さない”Ngừng xả thải
”汚水を流したら、逮捕してください”Bỏ tù nếu xả nước bẩn
Báo chí Nhật được tự do đăng tin.
Người dân cả nước phẫn nộ.
Họ không ngồi im chờ chết. Họ cũng từng bị chính quyền bắt bớ đánh đập. Họ cũng đã phải đấu tranh đòi quyền lợi của mình. Họ phải tự đòi vì không có ai cho họ cả.
Bệnh Minamata cho đến nay, sau 61 năm, vẫn chưa được giải quyết triệt để hoàn toàn hậu quả. Tuy nhiên, cùng với nền dân chủ của mình, Nhật Bản đã tiến một bước khá xa so với tình trạng bi thảm ban đầu. Sau đây là những nguyên lý căn bản góp phần giải quyết thảm họa ô nhiễm công nghiệp môi trường biển lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại này do các nhà nghiên cứu tại Nhật Bản đưa ra:
① Tự do báo chí, xuất bản, ngôn luận: góp phần hình thành dư luận, truyền bá các thông điệp làm chín muồi cao trào tranh đấu tập thể khiến chính quyền địa phương lẫn chính quyền trung ương và cả Tòa án phải nhập cuộc. Quyền biểu đạt ý kiến chính là ngòi nổ đầu tiên của các diễn biến liên hoàn sau đó.
② Tự do hội họp, lập hội: tiếng nói của từng cá nhân trong xã hội vốn nhỏ bé, giới hạn, nhưng những người trẻ tuổi, không đảng phái, không bị ràng buộc vào một định chế chính trị nào đã nhanh chóng góp mặt để cùng hành động với bệnh nhân tọa kháng trước trụ sở chính của Nippon Chisso và thành lập từng tổ chức nhỏ, hội họp ở các nơi, phát tờ rơi, biểu tình tuần hành nâng cao và mở rộng khí thế của phong trào đấu tranh. Tự do hội họp, lập hội - một nguyên tắc lớn của chủ nghĩa dân chủ - đã là chiếc khiên chắn cho những người tranh đấu giải quyết vấn đề bệnh Minamata.
③ Tam quyền phân lập, khống chế và cân đối: nhân dân trực tiếp bầu cử lựa chọn đại biểu quốc hội lập pháp. Chính phủ hành pháp được thành lập bởi đảng có đa số đại biểu, vì thế phải hành động phù hợp với dư luận xã hội. Mặt khác, một quyền lực nữa của tam quyền phân lập là Tòa án Nhật Bản cũng đã có vai trò quan trọng và hữu hiệu trong việc thẩm tra pháp luật và giải quyết các loại tranh chấp chiếu theo pháp luật. Các bản án của Tòa án tối cao, tòa án tỉnh Kumamoto đã công nhận trách nhiệm của chính quyền trung ương và tỉnh Kumamoto là những bằng chứng cho thấy vai trò uy nghiêm của Tư pháp (Năm 2004, Tòa án tối cao Nhật Bản ra phán quyết thừa nhận chính phủ nước này và chính quyền địa phương đã không đưa ra biện pháp xử lý kịp thời để ngăn chặn thảm họa ở Minamata) . Với quan hệ khống chế và cân đối có trao đổi bàn luận nghiêm túc qua lại, tam quyền phân lập là hình mẫu lý tưởng để chính trị dân chủ ngày càng thẩm thấu vào đời sống hiện thực.
Minamata là căn bệnh gây ra do con người ăn cá và sò từ vùng biển bị ô nhiễm nặng nề bởi công ty Chisso thải methyl thủy ngân ra biển. Cùng thời gian đó, sự xung đột và thù địch giữa người với người trong cộng đồng cũng bung phát.
Mọi công dân của Minamata nhận ra rằng, nước và thức ăn là rất cần thiết cho cuộc sống, và là vô giá. Ngành xây dựng và công nghiệp không thể được cho phép tàn phá môi trường.
Sự sản xuất hàng loạt, tiêu thụ hàng loạt làm cho cuộc sống của chúng ta thuận tiện hơn, thịnh vượng hơn, nhưng cũng sinh ra hàng loạt rác thải. Tuy nhiên môi trường và sức khỏe của chúng ta phải chịu đựng với những cột khói thải khổng lồ, phân hóa học trong nông nghiệp, những hóa chất bảo quản và hàng loạt những hóa chất độc hại khác. Chúng ta không thể chỉ nghĩ đến cuộc sống vật chất giàu có đơn thuần của chúng ta mà không tham khảo đến mối liên quan với các nước khác. Bệnh Minamata cho chúng ta thấy rằng con người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân.
Bệnh Minamata còn cho chúng ta thấy rằng, để cùng tồn tại với tự nhiên, dựa trên quan điểm chúng ta phải sống đền đáp lại thiên nhiên, nghĩ về mối quan hệ với mọi người, sông hồ, biển, về những loại thức ăn an toàn, giảm bớt rác thải ở nhà và rác thải công nghiệp, phải phát triển kĩ thuật tái chế, và giải quyết các vấn đề của địa cầu
Một điều quan trọng để chúng ta nhận biết ở đây là những sai lầm như Chisso đã mắc phải ở Minamata sẽ không thể được phép xảy ra ở bất kì nơi nào nữa . Để có sự hiện đại như ngày nay, trong quá trình phát triển kinh tế của mình, người Nhật cũng đã từng phải trả những giá đắt. Việc tránh được trả giá về môi trường vừa có được kinh tế phát triển đó là lợi thế vừa là điều bắt buộc của những nước phát triển sau như Việt Nam
Khi tiến hành công nghiệp hoá người ta luôn phải trả giá, đó là suy nghĩ của những thập niên trước. Ngày nay con người đã thông minh hơn, 1 quốc gia có thể chọn con đường tăng trưởng GDP mà giá trả cho sự huỷ hoại môi trường thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trước đây đã phải trả. Nhưng nếu giáo dục, tri thức không được khai phóng thì chúng ta luôn phải lựa chọn: phát triển hay môi trường.
Thông tin thêm từ http://bit.ly/BenhMinamata
Minamata là một thảm hoạ môi trường kéo dài hơn 59 năm , từ năm 1932 – 1997 (từ khi xả thải đến khi hệ sinh thái biển phục hồi), nhưng hệ quả bi đát của nó vẫn tồn tại đến tận ngày nay và là một trong bốn chứng bệnh lớn nhất tại Nhật do ô nhiễm chất thải hoá học gây ra.
Minamata cũng là một án lệ môi trường điển hình với nhiều vụ kiện kéo dài từ năm 1959 tới tận hôm nay.
Minamata cũng là một điển hình cho thấy vai trò của chính quyền khi chọn lựa giữa quyền lợi cộng đồng và quyền lợi của nhóm thiểu số.
Một giám đốc của Chisso đã từng là Thị trưởng của thành phố Minamata. Công ty Chisso càng có ảnh hưởng tới khu vực và người dân càng bị phụ thuộc vào sự phát triển của Chisso. Chisso đã là một trong những công ty góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng nhanh chóng của Nhật bản sau chiến tranh thế giới lần 2 . Từ 1912-1926, nước biển bị ô nhiễm do nước thải của Chisso đổ ra đã gây nên một số vấn đề môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, từ năm 1932-1968, công ty Chisso tiếp tục sử dụng thủy ngân hữu cơ là chất xúc tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo. Tất nhiên trong quá trình sản xuất, methyl thủy ngân đã được sinh ra và cứ được đổ thẳng xuống biển mà không qua bất kì một sự xử lý nào . Thậm chí sau khi công ty Chisso biết rõ chính những nước thải của công ty họ gây nên căn bệnh Minamata, nhưng công ty vẫn không ngừng quá trình sản xuất của mình. Trong lần xét xử đầu tiên về căn bệnh Minamata, thái độ thờ ơ của Chisso đã bị chỉ trích kịch liệt .
Ngay từ năm 1908, khi tập đoàn Chisso mở nhà máy ở Minamata nước thải đã xả thẳng xuống vịnh và vùng biển quanh ngôi làng 10.000 dân này. Thiệt hại cho ngành ngư nghiệp là không thể tránh khỏi và hợp tác xã ngư nghiệp Minamata đã hai lần đòi Chisso bồi thường trước khi căn bệnh nhiễm độc thuỷ ngân bùng phát .
Sau các thương lượng trực tiếp vào năm 1926, Chisso đồng ý trả cho hợp tác xã khoản “tiền thông cảm” là 1.500 yen - khoảng 704 USD theo tỷ giá đương thời . Dùng thuật ngữ “tiền thông cảm” là cách Chisso tránh né nhận trách nhiệm gây thiệt hại và ngăn ngừa những khoản bồi hoàn về sau bằng cách thêm vào thoả thuận là không bao giờ kiện nữa. Kiểu chối bỏ trách nhiệm và những điều kiện ràng buộc của Chisso cứ tái diễn suốt bao lần đàm phán với ngư dân Minamata trong khi chất thải độc hại vẫn không ngừng xả xuống biển.
Đến năm 1943, Chisso ký kết với ngư dân một thoả thuận khác chấp nhận thông cảm 152.500 yen cho các thiệt hại ngư nghiệp trong quá khứ và tương lai, m à tính chất bất bình đẳng của thoả thuận này lộ rõ trong các điều khoản.
Năm 1956 là năm cư dân địa phương bắt đầu biết đến hội chứng bệnh lạ ở Minamata. Không còn là một ngôi làng nữa, Minamata giờ đây đã là thành phố với 27.000 dân. Nhà máy Chisso tuyển dụng tới 60% lực lượng lao động của Minamata. Hàng loạt người dân lâu nay ăn cá không biết có nhiễm độc bỗng phát sinh những dấu hiệu kỳ lạ. Bệnh nhẹ thì á khẩu, đi đứng khó khăn, co giật. Những trường hợp cực độ có biểu hiện phát điên, tê liệt, hôn mê và chết sau vài tuần phát bệnh.
Đến lúc này thì lượng tôm cá đánh bắt ở Minamata đã sụt giảm chỉ còn không tới 10% so với trước. Chính quyền tỉnh Kumamoto cố gắng khống chế căn bệnh lạ lây lan bằng cách cấm bán hải sản đánh bắt từ vịnh Minamata nhưng không hề ban bố lệnh cấm đánh bắt. Ngư dân đánh bắt được cá nhưng không thể bán và không hề có chính sách hỗ trợ tài chính nào bồi hoàn cho họ.
Tháng 9 năm 1958, HTX ngư nghiệp Minamata kiến nghị chính quyền tỉnh hãy cấm đánh bắt cá toàn diện để ngư dân được hưởng quyền bồi thường thích đáng theo luật Ngư nghiệp và bộ luật Vệ sinh thực phẩm đương thời của Nhật Bản. Chính quyền không hề có phản ứng gì khác hơn là khuyên ngư dân đừng ăn tôm cá do họ đánh bắt từ vịnh Minamata. Không còn nguồn thu nhập nào khác, nhiều ngư dân không còn lựa chọn nào ngoại trừ ăn những thứ mà họ đánh bắt được dưới biển.
Thực tế, suốt lịch sử thảm hoạ Minamata, việc đánh bắt cá ở Minamata chưa bao giờ bị cấm về mặt pháp lý. Bất kể lệnh cấm bán cá ô nhiễm, mối ngờ vực về tính an toàn của tôm cá khu vực Minamata vẫn lan tràn trong dân chúng địa phương và đến tháng 6 năm 1959 thì nhiều doanh nghiệp buôn bán hải sản phải khánh tận vì không ai mua hải sản nữa. Tuyệt vọng vì chính quyền làm ngơ, hợp tác xã buộc phải điều đình trực tiếp với Chisso.
Ngày 6 tháng 8, 400 ngư dân hợp tác xã kéo tới nhà máy và gặp giám đốc Eiichi Nishida trong bầu không khí thù nghịch. Ngư dân đòi Chisso phải làm sạch vịnh Minamata, lắp đặt các hệ thống xử lý nước thải và bồi thường 100 triệu yen, khoảng 278.000 USD. Đáp lại, giám đốc Nishida đề nghị một khoản “tiền thông cảm khẩn cấp” 500.000 yên cùng một lời hứa sẽ hội ý với chủ tịch tập đoàn Chisso ở Tokyo .
Sáu ngày sau, ngư dân lại kéo đến nhà máy tiếp tục đàm phán. Hai bên không đạt được thoả thuận nào ngoại trừ một chuyến khảo sát phối hợp về thực tế tình trạng ngư nghiệp ở Minamata để làm cơ sở đàm phán tiếp vào ngày 17 tháng 8. Sau chuyến khảo sát này, Chisso thừa nhận không còn khả năng đánh cá ở một số khu vực và đưa ra đề nghị cuối cùng 13 triệu yen - 36.100 USD .
Đề nghị bủn xỉn ấy khiến ngư dân phẫn nộ và nổi loạn. Lực lượng cảnh sát chống bạo loạn của thành phố phải ra tay can thiệp. Nishida và các nhân viên công ty thực tế trở thành con tin ngay trong nhà máy. Chỉ đến khi thị trưởng Todomu Nakamura đồng ý làm trung gian hoà giải giữa hai bên tranh chấp thì ngư dân mới rời khỏi khu vực Chisso.
Hội đồng hoà giải do thị trưởng Nakamura lập ra vào ngày 26 tháng 8 lại đưa ra phán quyết rất thiên vị Chisso. Theo đó, công ty này sẽ trả 20 triệu yen (55.600 USD) trực tiếp cho hợp tác xã và lập một ngân quỹ 15 triệu yen (41.700 USD) để phục hồi ngư nghiệp. Phán quyết này lại đi kèm với một tối hậu thư rằng nếu một trong hai bên bác bỏ đề nghị này thì hội đồng hoà giải sẽ chấm dứt ngay các hoạt động trung gian.
Ba ngày sau, phía hợp tác xã phản hồi : Nhằm kết thúc nỗi lo ngại của công dân, chúng tôi nuốt lệ chấp nhận .
Bài học Minamata trên truyền hình NHK Nhật Bản
Minamata là căn bệnh gây ra khi ăn một lượng lớn cá, sò, h ải sản trong vùng biển bị ô nhiễm nặng vì methyl thủy ngân thải ra vịnh Minamata. Đây không phải là căn bệnh lây nhiễm, hoặc bị di truyền về sau.
Lần đầu tiên căn bệnh này được phát hiện vào năm 1956, và 12 năm sau (1968), chính phủ Nhật Bản mới chính thức thừa nhận, căn bệnh này cho công ty Chisso gây ra vì đã xả thải kim loại nặng thủy ngân khiến cá và hải sản nhiễm độc . Khi methyl thủy ngân xâm nhâp vào cơ thể, chúng sẽ tấn công vào cơ quan thần kinh trung ương. Các triệu chứng là chân và tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, mệt mỏi, ù tai, mắt mờ, điếc, nói lắp bắp…các hành động của cơ thể trở nên yếu ớt. Những bệnh nhân đầu tiên ở Minamata đã bị điên, bất tỉnh và chết một tháng sau khi bị mắc bệnh. Có những bệnh nhân bị mắc bệnh Minamata kinh niên, như là đau đầu, mệt mỏi thường xuyên, mất khả năng vị giác và khứu giác, hay quên…Những điều này biểu lộ không rõ nét nhưng làm cuộc sống của họ trở nên khó khăn hơn. Nhiều người còn bị bệnh Minamata bẩm sinh khi mẹ của họ đã ăn cá bị ô nhiễm methyl thủy ngân khi đang mang thai họ, khiến cho họ sinh ra đã là người tàn tật.
Hàng trăm người không có khả năng nhận thức, sống dự hoàn toàn vào bố mẹ. Nhiều bào thai không thể hình thành, nhiều người con sinh ra chân tay bị co quắp cho đến ngày nay. Ngay cả với những nhà nhiếp ảnh, bệnh Minamata là một kí ức kinh hoàng. Đó là những hình ảnh người bệnh kêu la vì đau đớn, hình ảnh người co giật, sùi bọt mép, bại liệt cả đời sống trên xe lăn. Hay một số bệnh nhân bị mù, điếc, mất trí và mất thăng bằng.
Chưa một giải pháp nào có hiệu quả để chữa căn bệnh Minamata, nhưng các bác sĩ đã cố gắng làm giảm bớt những triệu chứng trên bằng những biện pháp tập luyện, trị liệu. Ngoài những tổn hại về mặt cơ thể con người, còn có những tổn hại về mặt xã hội nữa, chắc hạn có những sự phân biệt đối xử với những người mắc căn bệnh này.
Có bao nhiêu người đã mắc bệnh Minamata ?
Cho đến ngày 30/4/1997, số người trong hai tỉnh Kumamoto và Kagoshima chứng nhận là đã mắc bệnh Minamata lên tới 17 ngàn người. Trong đó có 2.265 (trong đó 1.484 người đã qua đời cho đến 31/1/2003) đã được chính phủ công nhận. 10.625 người được Chính phủ bồi thường. Như vậy, theo Chính phủ Nhật thì có tổng cộng 12.890 người đã mắc bệnh cho đến nay. Tuy nhiên có một số đã chết trước khi căn bệnh này được chính thức công bố, và nhiều người chưa kịp nộp đơn xin chứng nhận thì đã chết. Nhiều người thì không nộp đơn vì nhiều lý do, chính vì vậy mà không thể có được một số liệu chính xác về những bệnh nhân Minamata. Căn bệnh kiểu Minamata đã không chỉ xảy ra ở riêng vùng Minamata.
Thảm hoạ môi trường Minamata không chỉ là chuyện những con cá, tôm cua nghêu sò ốc hến nhiễm thủy ngân độc hại cỡ nào, mà còn muốn nói về hành trình đi tìm chân lý khoa học đã bị trắc trở ra sao bởi kim tiền thế lực, cùng với những nỗi đau mà nạn nhân phải chịu đựng. Câu chuyện bắt đầu thế này…
Một ngày tháng tư năm 1956, một bé gái năm tuổi được đưa tới bệnh xá của nhà máy Chisso ở Minamata. Bé đi đứng run rẩy, ăn nói khó khăn, và bị co giật liên tục. Hai ngày sau, em gái của bé cũng nhập viện với triệu chứng tương tự. Mẹ của hai bé cho biết, nhiều trẻ em láng giềng cũng bị như thế. Bác sĩ cho rằng các biểu hiện này đều liên quan đến hệ thần kinh trung ương, và có thể đó là nạn dịch truyền nhiễm. Các bệnh nhân lập tức bị cô lập, buồn tủi và mặc cảm do sự phân biệt đối xử và xa lánh của cộng đồng địa phương.
Chưa hết, những con mèo bỗng lên cơn, múa may quay cuồng rồi chết. Trên trời quạ rơi xuống đất, mặt biển cá chết nổi lềnh bềnh, dưới biển rong tảo không thể sống…
Sự việc không còn đơn giản nữa. Trường Đại học Kumamoto được mời nhập cuộc. Kumamoto là tỉnh mà thành phố Minamata trực thuộc. Nhóm nghiên cứu nhận thấy, ngoài các triệu chứng kể trên, nhiều người còn bị tê tay, tê chân, không tự cài được nút áo, mắt mờ, tai lãng, khó nuốt, co giật, hôn mê sâu và sau cùng tử vong. Vài tháng sau đó, 40 bệnh nhân được ghi nhận, 14 người trong số đó đã chết.
Nhóm nghiên cứu nhận thấy bệnh nhân đều là những người dân sống ở làng chài ven vịnh Minamata, và đều ăn cá, tôm cua sò ốc hến ở đó. Họ cho rằng, có thể là do ngộ độc thực phẩm, và có lẽ là do kim loại nặng.
Nhưng kim loại nặng thì nhiều loại lắm: đồng, chì, thủy ngân, mangan, arsenic, selenium, thallium. Trong đó mangan bị “chiếu tướng” kỹ nhất vì dư lượng khá cao được tìm thấy trong cá. Tuy nhiên, triệu chứng do ngộ độc các kim loại nặng nêu trên (trừ thủy ngân), không giống với những gì quan sát được nơi những bệnh nhân ở Minamata.
Sự việc cứ lình xình như thế, hết giả thuyết này đến giả thuyết nọ, chẳng đi đến đâu. Gần hai năm sau, tháng ba năm 1958, một nhà thần kinh học người Anh, Douglas McAlpine sau chuyến viếng thăm Minamata, mới nêu ý kiến, các triệu chứng của Minamata rất giống với ngộ độc thủy ngân hữu cơ, và cho lời khuyên, nên hướng nghiên cứu tập trung vào thủ phạm này.
Mẫu tóc của bệnh nhân và cư dân vùng Minamata được đem đi xét nghiệm. Mức thủy ngân ở bệnh nhân là 705 ppm max, và cư dân (chưa phát bệnh) là 191 ppm. Trong khi mức trung bình của cư dân ngoài vùng Minamata chỉ có 4 ppm. Một sự chênh lệch khủng khiếp!
Nghêu sò ốc hến tôm cua cá biển ở vùng vịnh Minamata cũng được đem xét nghiệm. Bùn cặn nơi đây có mức thủy ngân rất cao, nhưng cao nhất là ở vùng xả thải của nhà máy Chisso, và giảm dần khi đổ ra biển. Ở gần miệng cống thải, không thể tưởng tượng nổi, mức thủy ngân tìm thấy trong bùn cặn lên tới 2 kg/tấn. Đây phải xem là “mỏ thủy ngân” rồi chứ đâu còn là chất thải. Chuyện thật như đùa, sau này công ty Chisso cho tái chế đống bùn này để lấy thủy ngân đem bán.
Tập đoàn Chisso là ai?
Chisso là một trong những công ty hóa chất hàng đầu của Nhật Bản, thành lập năm 1908, và có nhà máy đặt tại Minamata. Ban đầu, Chisso chỉ sản xuất phân bón, sau mới sản xuất thêm nhiều loại hóa chất khác, trong đó có chất acetaldehyde, liên quan tới thủy ngân.
Năm 1932, Chisso mới bắt đầu sản xuất acetaldehyde ở mức 210 tấn/năm, và tăng dần lên tới 45.245 tấn vào năm 1960. Công nghệ sản xuất acetaldehyde đòi hỏi phải dùng nhiều loại chất xúc tác, trong đó có sulfate thủy ngân và ôxít mangan. Năm 1951, Chisso đã thay ôxít mangan bằng sulfur sắt (III) để có giá thành rẻ hơn. Tuy nhiên phản ứng phụ trong chuỗi xúc tác này tạo ra methyl thủy ngân, một dạng thuỷ ngân hữu cơ độc hại nhất, độc hơn sulfate thủy ngân nhiều.
Như vậy, Chisso đã bắt xả đầu thải thủy ngân ra vịnh Minamata từ năm 1932. Cùng với sản lượng tăng dần, và tai hại nhất là năm 1951 xả thêm methyl thủy ngân, và cho mãi đến năm 1968 mới ngưng công nghệ “đổi chất xúc tác” này. Thảm họa Minamata bùng nổ từ năm 1956.
Vào thập niên 1950, hiểu biết của khoa học về ngộ độc của thủy ngân và những hợp chất của nó còn hạn chế nhiều, chỉ luẩn quẩn trong phòng thí nghiệm hoặc ở quy mô nhỏ, chứ còn ô nhiễm do xả thải công nghiệp ở diện rộng, rồi ngộ độc qua tôm cá, và chỉ đích danh được methyl thủy ngân là thủ phạm là điều không dễ dàng. Và cũng vì không dễ dàng, nên khoa học mới bị nhập nhằng đổi trắng thay đen.
Và cũng nên biết rằng, những năm 1950, 1960, dân Nhật đang nỗ lực rất nhiều để xây dựng lại công nghiệp và phát triển kinh tế gần như từ số không sau khi thất trận ở thế chiến II. Thế nên thành công của Chisso là niềm tự hào của cả dân tộc Nhật lúc đó. Những nạn nhân đòi hỏi bồi thường và những người liên quan đều bị dư luận Nhật xem là những kẻ phá rối.
Những con tim chân chính vì chân lý
Khi nhóm nghiên cứu của đại học Kumamoto đến làm việc, Chisso đã bỏ mặc họ muốn làm gì thì làm, muốn đoán sao thì đoán, chứ không cho biết công nghệ ra sao, đã sử dụng những chất gì, hay chất nào đáng ngờ nhất. Lý do đây là bí mật công nghệ, mà niềm tự hào dân tộc đã nâng cấp thành “bí mật quốc gia”. Tất cả công nhân viên Chisso đều nhiệt tình che đậy sự thật.
Bác sĩ Hosokawa, giám đốc bệnh xá nhà máy đã làm thí nghiệm bằng cách cho những con mèo lành mạnh ăn thức ăn có trộn nước thải từ Chisso. Hơn 70 ngày sau, những con mèo này biểu hiện triệu chứng múa may cuồng loạn và chết. Chisso ra lệnh ngưng thí nghiệm và không được phép tiết lộ ra ngoài. Thực nghiệm của Hosokawa tuy không chỉ được đích danh thủ phạm là methyl thủy ngân, nhưng cũng chỉ ra được mối quan hệ giữa chất xả thải của Chisso và thảm họa đang xảy ra.
Ô nhiễm thuỷ ngân do con người gây ra: Các nhà máy nhiệt điện (đốt than) chiếm nhiều nhất (65%), khai thác vàng (11%), luyện sắt thép, xi măng, pin, đèn huỳnh quang,… thải thủy ngân ra không khí, ao hồ, sông biển… Thủy ngân dù ở dạng nguyên tố (Hg), hay dạng muối vô cơ, khi đi vào nguồn nước đa số đều bị các vi sinh vật chuyển hoá thành methyl thủy ngân, tích tụ trong rong tảo. Đây là dạng độc hại nhất của thuỷ ngân trong thực phẩm.
Sau này, bác sĩ Hosokawa, trước khi chết vì ung thư đã ra làm chứng trước tòa, và là nhân chứng sáng giá nhất trong vụ kiện đòi đền bù.
Khi biết nhóm nghiên cứu của Đại học Kumamoto sẽ tập trung khảo sát và lấy mẫu ở khu vực cảng Hyakkken, nơi Chisso xả thải. Chisso ngưng xả theo hướng đó, mà cho xả trực tiếp xuống sông Minamata luôn. Hậu quả là ô nhiễm lan rộng hơn đến các khu vực lân cận. Cá chết, người bệnh tràn lan thêm. Bất chấp đến thế là cùng!
Tìm cách đánh lạc hướng khảo sát của Đại học Kumamoto đang nhắm vào methyl thủy ngân, Chisso đã“móc nối” với Bộ Ngoại thương và Kỹ nghệ và Hiệp hội Kỹ nghệ hóa chất Nhật Bản để tài trợ cho những nghiên cứu khác, nhằm chứng tỏ căn bệnh thần kinh đó là do nguyên nhân khác chứ không phải do nước thải của Chisso, và rằng nhà máy Chisso cần thiết tiếp tục hoạt động.
Chưa hết, Chisso còn vận động để chính phủ cắt luôn tài trợ nghiên cứu về bệnh Minamata của Đại học Kumamoto, nhưng nhóm khoa học gia“ngoan cố”của Kumamoto vẫn âm thầm đi tiếp công việc của mình. Năm 1962, giáo sư Irigayama đã tách được methyl thủy ngân từ trong hệ xúc tác thải ra của Chisso khi sản xuất acetaldehyde. Chân lý đã sáng tỏ, nhưng là thứ chân lý hẩm hiu, vùi dập. Cộng đồng khoa học Nhật hồi đó đã nhắm mắt làm ngơ với chân lý methyl thủy ngân.
Chỉ đến tháng sáu năm 1965, một thảm họa tương tự như Mianmata xảy ra ở thành phố Niigata (cách xa Minamata). Hai nhà máy sản xuất acetaldehyde ở đây đã xả thải ra thượng nguồn sông Agano. Hậu quả là cư dân và động vật ở hạ nguồn Agano mắc bệnh và có những triệu chứng tương tự như ở Minamata. Chân lý ngộ độc methyl thủy ngân không thể bị vùi dập được nữa.
Vào giai đoạn đầu khi bệnh bùng phát, chính phủ và công ty đã thiếu thiện chí trong việc tìm ra nguyên nhân đích thực, giải quyết, phòng chống ô nhiễm và bồi thường thiệt hại khiến cho đời sống ngư dân điêu đứng, có người phải đi ăn xin, toan tính tự tử và nhiều người rời bỏ Minamata do tuyệt vọng.
Vì muốn trốn tránh trách nhiệm, Nippon Chisso đã không chỉ từ chối cung cấp mẫu phân tích nước thải mà còn không công khai sản phẩm và qui trình sản xuất với lý do bí mật kinh doanh đồng thời để cho học giả của nhà nước viện dẫn các nguyên nhân thiếu trung thực hòng lung lạc dư luận mà chạy tội.
Tình trạng này dần được cải thiện với sự cố gắng của xã hội dân sự không có vị thế chính trị như bác sĩ Narada Masazumi, nhà văn Ishimurei Michiko xuất thân Minamata, hóa học gia Ui Jun trợ giảng đại học Tokyo, đạo diễn điện ảnh Tsuchimoto Noriaki, nhiếp ảnh gia Kuwahara Fuminari v.v… giúp cho sự thật về bệnh Minamata ngày càng được phơi bày trước ánh sáng khi các cuộc biểu tình và phong trào dân sinh đã lôi cuốn dư luận toàn nước Nhật.
Đã 60 năm kể từ khi những nạn nhân đầu tiên về ngộ độc thủy ngân được phát hiện ở Minamata do xả thải công nghiệp. Nhìn lại để thấy, chân lý khoa học không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Đôi khi nó cũng chịu chung số phận bầm dập như nạn nhân ô nhiễm.
Điều gì đã xảy ra với vịnh Minamata ?
Theo Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), thảm họa sinh thái ở Minamata là một trường hợp điển hình của ô nhiễm kim loại, vốn là một dạng ô nhiễm cực kỳ khó xử lý với hậu quả kéo dài vì kim loại không tự tiêu hủy được. Khi con người ăn hải sản nhiễm thủy ngân, kim loại này cũng tích tụ lại và dần tàn phá hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên.
18 năm sau khi bệnh bùng phát, quyết đinh tái sinh vịnh Minamata mới được đưa ra. Nhằm để ngăn chặn những con cá đã bị nhiễm độc, và bảo vệ người dân, tỉnh Kumamoto đã thả lưới ở cửa ra vào vịnh Minamata vào năm 1974 và vận động việc đánh cá nằm trong vịnh. Công ty Chisso đã mua lại số cá này và đem đi tiêu hủy. Quá trình đánh bắt tiêu hủy này mất 23 năm mới hoàn thành. Lòng vịnh Minamata đã được nạo vét suốt 13 năm và tiêu phí tới 48.5 tỉ yên, những chi phí này do tỉnh Kumamoto đảm nhiệm. Sau khi được cải tạo, chất lượng nước trong vịnh Minamata đã trở thành một trong những nơi đứng đầu trong tỉnh Kumamoto về độ trong và độ sạch, vì vậy mọi người ngày nay có thể bơi lội hoặc chơi các môn thể thao dưới nước một cách an toàn ở đó. Từ khi Chisso ngừng x ả thải, nồng độ thủy ngân trong cá và sò trong vịnh Minamata càng ngày càng giảm xuống. Tháng 10/1994, tỉnh Kumamoto đã khẳng định lượng thủy ngân năm trong các loài cá tại vịnh Minamata đều nằm trong giới hạn tiêu chuẩn quốc gia là 0,4 ppm. Và đến tháng 6/1997, tỉnh Kumamoto đã tuyên bố Minamata trở lại an toàn và toàn bộ những tấm lưới trên được dỡ bỏ. Ngày nay, toàn bộ cá ở trong vịnh đều đảm bảo an toàn giống như những loài cá ở ngoài vịnh. Tuy những tấm lưới trên đã được dỡ bỏ, Nhưng những cuộc điều tra về nồng độ thủy ngân trong các loài cá và sò trong vịnh Minamata đều được tiến hành mỗi năm 2 lần và sẽ kéo dài trong suốt 3 năm tới nữa. Các số liệu về Minamata là bài học rút ra cho không chỉ người Nhật và còn cho nhiều nước trên thế giới về việc môi trường bị tàn phá và sức khỏe con người bị ảnh hưởng trên diện rộng. Chính vì vậy mà căn bệnh Minamata cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa .
Về những bệnh nhân Minamata ?
Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ khi căn bệnh Minamata bùng phát, với các bệnh nhân, 60 năm qua là quãng thời gian của sự khó khăn trong đời sống và gian nan đấu tranh trong những phiên tòa và những cuộc thương lượng. Chưa có giải pháp nào chữa hoàn toàn được căn bệnh Minamata. Phần lớn các bệnh nhân hàng ngày phải đến bệnh viện để chữa trị và phục hồi. Hiện nay khi các bệnh nhân trở nên già hơn, số người phải nằm tại viện hoặc cần sự trợ giúp tại gia đình cũng tăng lên. Trong xã hội đang già đi của Nhật Bản, những bệnh nhân này muốn được sống yên ổn cùng mọi người trong xã hội mà không phải bị lo lắng gì để học cách sống cùng với bệnh tật. Tuy nhiên vẫn có một số định kiến và hiểu lầm về căn bệnh Minamata này vẫn còn tồn tại. Nhiều người đã phải dấu họ là bệnh nhân Minamata, thậm chí ngay với cả người thân trong gia đình. Một số người thì cống hiến cho các hoạt động như kể về giai đoạn trải qua căn bệnh của mình và những bài học cho các thế hệ trong tương lai, hy vọng rằng căn bệnh Minamata sẽ không được phép xảy ra ở bất kì nơi nào nữa .
Hiện nay tập đoàn Chisso có trụ sở ở Tokyo và có ba nhà máy khác ở Chiba, Okkayama và nhà máy ở Minamata. Các sản phẩm chính của Chiso là pha lê lỏng, các chất bảo quản, các chất chống sấy khô, phân hóa học, nhựa thông nhân tạo, và một số sản phẩm khác nữa. Nhà máy ở Minamata có 554 người vào tháng 10/2002 và Chisso vẫn là một công ty quan trọng ở Minamata. Chisso đang có bổn phận phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gây nên căn bệnh Minamata. Từ 1975 việc quản lý của Chisso gặp khó khăn, tỉnh Kumamoto đã phải giúp đỡ công ty Chisso bồi thường thiệt hại từ vốn cho vay của tỉnh đến năm 2000. Tổng cộng Chisso phải bồi thường số tiền là 260 tỉ yên, chính vì vậy Chính phủ Nhật cũng phải ra tay giúp Chisso trả dần số tiền trên từ tháng 2/2002 cho đến khi tự Chisso có thể trả được số tiền nợ trên . Chisso vẫn phải chịu trách nhiệm trong việc trả phí tổn điều trị cho bệnh nhân Minamata và những thiệt hại cho đời sống của họ.
Lời kết
Khi bệnh Minamata xảy ra ở Nhật thì
- Chính phủ và nhà máy gây ô nhiễm đều nói đây không phải lỗi của họ. Ngăn cấm người dân biểu tình.
- Người dân đã làm gì. Họ xuống đường tuần hành với những biểu ngữ
"病気のお金を払ってください”
Trả tiền cho người bệnh đi
”汚水を流さない”Ngừng xả thải
”汚水を流したら、逮捕してください”Bỏ tù nếu xả nước bẩn
Báo chí Nhật được tự do đăng tin.
Người dân cả nước phẫn nộ.
Họ không ngồi im chờ chết. Họ cũng từng bị chính quyền bắt bớ đánh đập. Họ cũng đã phải đấu tranh đòi quyền lợi của mình. Họ phải tự đòi vì không có ai cho họ cả.
GSTS Tonoka nói chuyện về Minamata tại Aoumi Day. Công viên Yoyogi, Tokyo
Bệnh Minamata cho đến nay, sau 61 năm, vẫn chưa được giải quyết triệt để hoàn toàn hậu quả. Tuy nhiên, cùng với nền dân chủ của mình, Nhật Bản đã tiến một bước khá xa so với tình trạng bi thảm ban đầu. Sau đây là những nguyên lý căn bản góp phần giải quyết thảm họa ô nhiễm công nghiệp môi trường biển lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại này do các nhà nghiên cứu tại Nhật Bản đưa ra:
① Tự do báo chí, xuất bản, ngôn luận: góp phần hình thành dư luận, truyền bá các thông điệp làm chín muồi cao trào tranh đấu tập thể khiến chính quyền địa phương lẫn chính quyền trung ương và cả Tòa án phải nhập cuộc. Quyền biểu đạt ý kiến chính là ngòi nổ đầu tiên của các diễn biến liên hoàn sau đó.
② Tự do hội họp, lập hội: tiếng nói của từng cá nhân trong xã hội vốn nhỏ bé, giới hạn, nhưng những người trẻ tuổi, không đảng phái, không bị ràng buộc vào một định chế chính trị nào đã nhanh chóng góp mặt để cùng hành động với bệnh nhân tọa kháng trước trụ sở chính của Nippon Chisso và thành lập từng tổ chức nhỏ, hội họp ở các nơi, phát tờ rơi, biểu tình tuần hành nâng cao và mở rộng khí thế của phong trào đấu tranh. Tự do hội họp, lập hội - một nguyên tắc lớn của chủ nghĩa dân chủ - đã là chiếc khiên chắn cho những người tranh đấu giải quyết vấn đề bệnh Minamata.
③ Tam quyền phân lập, khống chế và cân đối: nhân dân trực tiếp bầu cử lựa chọn đại biểu quốc hội lập pháp. Chính phủ hành pháp được thành lập bởi đảng có đa số đại biểu, vì thế phải hành động phù hợp với dư luận xã hội. Mặt khác, một quyền lực nữa của tam quyền phân lập là Tòa án Nhật Bản cũng đã có vai trò quan trọng và hữu hiệu trong việc thẩm tra pháp luật và giải quyết các loại tranh chấp chiếu theo pháp luật. Các bản án của Tòa án tối cao, tòa án tỉnh Kumamoto đã công nhận trách nhiệm của chính quyền trung ương và tỉnh Kumamoto là những bằng chứng cho thấy vai trò uy nghiêm của Tư pháp (Năm 2004, Tòa án tối cao Nhật Bản ra phán quyết thừa nhận chính phủ nước này và chính quyền địa phương đã không đưa ra biện pháp xử lý kịp thời để ngăn chặn thảm họa ở Minamata) . Với quan hệ khống chế và cân đối có trao đổi bàn luận nghiêm túc qua lại, tam quyền phân lập là hình mẫu lý tưởng để chính trị dân chủ ngày càng thẩm thấu vào đời sống hiện thực.
Minamata là căn bệnh gây ra do con người ăn cá và sò từ vùng biển bị ô nhiễm nặng nề bởi công ty Chisso thải methyl thủy ngân ra biển. Cùng thời gian đó, sự xung đột và thù địch giữa người với người trong cộng đồng cũng bung phát.
Mọi công dân của Minamata nhận ra rằng, nước và thức ăn là rất cần thiết cho cuộc sống, và là vô giá. Ngành xây dựng và công nghiệp không thể được cho phép tàn phá môi trường.
Sự sản xuất hàng loạt, tiêu thụ hàng loạt làm cho cuộc sống của chúng ta thuận tiện hơn, thịnh vượng hơn, nhưng cũng sinh ra hàng loạt rác thải. Tuy nhiên môi trường và sức khỏe của chúng ta phải chịu đựng với những cột khói thải khổng lồ, phân hóa học trong nông nghiệp, những hóa chất bảo quản và hàng loạt những hóa chất độc hại khác. Chúng ta không thể chỉ nghĩ đến cuộc sống vật chất giàu có đơn thuần của chúng ta mà không tham khảo đến mối liên quan với các nước khác. Bệnh Minamata cho chúng ta thấy rằng con người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân.
Bệnh Minamata còn cho chúng ta thấy rằng, để cùng tồn tại với tự nhiên, dựa trên quan điểm chúng ta phải sống đền đáp lại thiên nhiên, nghĩ về mối quan hệ với mọi người, sông hồ, biển, về những loại thức ăn an toàn, giảm bớt rác thải ở nhà và rác thải công nghiệp, phải phát triển kĩ thuật tái chế, và giải quyết các vấn đề của địa cầu
Một điều quan trọng để chúng ta nhận biết ở đây là những sai lầm như Chisso đã mắc phải ở Minamata sẽ không thể được phép xảy ra ở bất kì nơi nào nữa . Để có sự hiện đại như ngày nay, trong quá trình phát triển kinh tế của mình, người Nhật cũng đã từng phải trả những giá đắt. Việc tránh được trả giá về môi trường vừa có được kinh tế phát triển đó là lợi thế vừa là điều bắt buộc của những nước phát triển sau như Việt Nam
Khi tiến hành công nghiệp hoá người ta luôn phải trả giá, đó là suy nghĩ của những thập niên trước. Ngày nay con người đã thông minh hơn, 1 quốc gia có thể chọn con đường tăng trưởng GDP mà giá trả cho sự huỷ hoại môi trường thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trước đây đã phải trả. Nhưng nếu giáo dục, tri thức không được khai phóng thì chúng ta luôn phải lựa chọn: phát triển hay môi trường.
Thông tin thêm từ http://bit.ly/BenhMinamata
Dịch và biên tập: @NguoiKyAnh - HỘI ĐỒNG HƯƠNG KỲ ANH
Đăng nhận xét