NewVnNews - Cách đây 67 năm, vào ngày 10 tháng 12 năm 1948, tai Paris – Thủ đô nước Pháp – Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã ra đời. Tuy nhiên sau hơn 60 năm đã qua, nhiều người trên thế giới vẫn không hề biết về sự tồn tại của bản Tuyên ngôn này. Và ngày 10/12 hàng năm được Liên hợp Quốc chọn là Ngày Nhân quyền (Human Rights Day) để nhắc nhở mọi người trên thế giới hãy ý thức tôn trọng và hành động bảo vệ quyền con người dù ở bất cứ nơi đâu và trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Theo ông Nguyễn Gia Kiểng thế giới đã tiến một bước rất xa về nhân quyền. Vào giờ này chúng ta có thể lạc quan. Mặc dầu chúng ta có thể chưa thể hài lòng bởi vì quyền con người vẫn chưa được trọn vẹn tôn trọng, nhưng nếu so sánh với 67 năm về trước thì chúng ta đã tiến một bước rất xa. Phải nói là bản Tuyên ngôn này đã ra đời trong một hoàn cảnh rất khó khăn. Chúng ta cần nhắc lại hoàn cảnh ra đời của nó. Đó là nó không được dự trù là sẽ có. Khi Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai sắp kết thúc vào mùa Xuân 1945, một số quốc gia đã họp lại tại San Francisco (Mỹ) để dự định thành lập một tổ chức mới thay cho Hội Quốc Liên đã tỏ ra bất lực trong việc phòng ngừa Thế Chiến II xảy ra. Mục tiêu của họ là thành lập một tổ chức - mà sau này chúng ta được biết là Liên Hợp Quốc - với mục đích chính là ngăn ngừa một cuộc thế chiến mới. Trong khi nghiên cứu soạn thảo bản hiến chương Liên Hợp Quốc có một số trí thức tập trung trong các tổ chức NGO (các tổ chức phi chính phủ), được mời tới vì uy tín cá nhân hay tổ chức của họ để làm tham vấn trong việc soạn thảo hiến chương cho Liên Hợp Quốc. Những vị này trong khi thảo luận đã nhận ra một điều là nguyên nhân đã đưa đến hai cuộc thế chiến – thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai – là ở chỗ người ta đã quá đề cao vai trò của quốc gia; hầu như người ta chỉ biết đến các quốc gia thôi mà không biết tới một yếu tố cốt lõi là con người. Bởi vậy họ đi đến kết luận là lần này muốn tránh một thảm kịch mới cho thế giới thì phải đặt con người là trung tâm của mọi ưu tiên chính trị. Nói một cách khác phải đề cao một luồng tư tưởng chính trị đã có từ thế kỷ 16, 17 nhưng luôn luôn bị chèn ép nên không phát triển được. Đó là chủ nghĩa cá nhân theo đó cá nhân mới là đối tượng phục vụ chính; nhà nước chỉ là một phương tiện bảo đảm cho cá nhân phát huy khả năng của mình và đóng góp vào xây dựng xã hội. Vì nhận định như vậy nên họ đã cố gắng đưa ngay vào Lời Nói Đầu của Hiến chương Liên Hợp Quốc là phải tôn trọng các quyền căn bản của con người trước khi nói tới sự liên hệ giữa các quốc gia với nhau. Dần dần họ đã thuyết phục được một phần dư luận. Lúc ban đầu các quốc gia cũng không quan tâm lắm đến quyền con người. Lúc đó giá trị quan trọng nhất vẫn là quốc gia, là tổ quốc hay là giai cấp mà thôi. Ngay cả sự kiện bản tuyên ngôn này được ra đời cũng là kỳ công của một số trí thức. Phải nhớ lúc đó là đầu năm1945, họ phải chờ đợi đến cuối năm 1948, nghĩa là hơn 3 năm rưỡi sau, mới hoàn tất được bản tuyên ngôn. Bản tuyên ngôn này dù vậy chỉ có giá trị nguyên tắc thôi. Nó còn cần được bổ túc bằng những điều khoản cụ thể trong hai công ước sau này được gọi là Công ước về các quyền dân sự và chính trị và ước về quyền kinh tế xã hội và văn hóa. Để soạn thảo hai công ước này đã phải mất thêm 18 năm nữa. Cho tới năm 1966 mới hoàn tất xong. Tuy hoàn tất xong, những các quốc gia quan trọng nhất, hai siêu cường lúc đó là Liên Xô và Mỹ, không đồng ý. Mỹ thì biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập nhưng mãi đến năm 1977 mới ký hai công ước. Còn Liên Xô thì vắng mặt trong khi biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và đến khi sụp đổ vẫn không ký thông qua hai công ước về quyền con người. Hoàn cảnh khó khăn như thế nhưng ý niệm nhân quyền càng ngày càng lớn lên. Đến năm 1976, khi nhiều nước đã ký vào hai công ước về quyền con người, ba tài liệu Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và hai công ước đính kèm được coi là luật quốc tế và từ nay có gia trị của công pháp quốc tế. Phải nói là chúng ta đã tiến một bước dài.
Liên Hợp Quốc ra đời như là một định chế để ngăn cản một cuộc thế chiến mới, để ngăn cản chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản không biến thành thế chiến nóng. Bây giờ chiến tranh lạnh không còn là một nguy cơ nữa Liên Hợp Quốc bắt đầu có một vài trò mới là thăng tiến nhân quyền. Cho nên chúng ta thấy có một định chế mới là Rà Soát Phổ Cập Định Kỳ UPR như kỳ kiểm điểm tông quát năm 2014 ở Genève. Đây là một tiến bộ. Năm 2014 cuộc kiểm điểm phổ quát định kỳ trong đó Việt Nam phải trả lời, phải đưa báo cáo về nhân quyền. Cho tới ngày hôm nay khái niệm về nhân quyền là một khái niệm được nhìn nhận và được sự tôn trọng của mọi người, kể cả những người không thực hiện nó như các chế độ độc tài. Các chế độ này không còn dám phủ nhận nhân quyền như trước nữa. Họ chỉ có biện luận một cách lúng túng để trì hoãn việc thực thi nhân quyền mà thôi.
Liên Hợp Quốc ra đời như là một định chế để ngăn cản một cuộc thế chiến mới, để ngăn cản chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản không biến thành thế chiến nóng. Bây giờ chiến tranh lạnh không còn là một nguy cơ nữa Liên Hợp Quốc bắt đầu có một vài trò mới là thăng tiến nhân quyền. Cho nên chúng ta thấy có một định chế mới là Rà Soát Phổ Cập Định Kỳ UPR như kỳ kiểm điểm tông quát năm 2014 ở Genève. Đây là một tiến bộ. Năm 2014 cuộc kiểm điểm phổ quát định kỳ trong đó Việt Nam phải trả lời, phải đưa báo cáo về nhân quyền. Cho tới ngày hôm nay khái niệm về nhân quyền là một khái niệm được nhìn nhận và được sự tôn trọng của mọi người, kể cả những người không thực hiện nó như các chế độ độc tài. Các chế độ này không còn dám phủ nhận nhân quyền như trước nữa. Họ chỉ có biện luận một cách lúng túng để trì hoãn việc thực thi nhân quyền mà thôi.
Phải nói về mặt tư tưởng đã có một thắng lợi lớn. Và ngay cả về mặt thực tế thì nhân quyền cũng đã trở thảnh ưu tư hàng đầu và trở thành áp lực đối với các chính quyền độc tài còn lại. Như vậy chúng ta nhìn nhận tiến bộ rất là lớn.
Nhưng bên cạnh những tiến bộ lớn cũng phải cảnh giác vì cũng có nguy cơ, đặc biệt đối với người Việt Nam, bởi vì khi nhân quyền đã trở thành giá trị phổ cập, đã được nhìn nhận như một giá trị tự nhiên thì người ta không còn cảm thấy nhu cầu phải đào sâu để hiểu rõ hơn nữa, trong khi đó người Việt Nam chúng ta có khuyết điểm là rất thiếu sót về nhận thức chính trị. Nhưng chúng ta không thể bảo vệ một khái niệm khi chúng ta chưa hiểu rõ được, chúng ta sẽ hành động một cách thiếu thuyết phục và thiếu hiệu quả.
Tôi xin nêu một vài ngộ nhận lớn mà chúng ta chưa vượt qua được.
Thứ nhất là ngộ nhận cho rằng nhân quyền khác với dân chủ trong khi hai khái niệm này là một. Nhân quyền là một vấn đề chính trị chứ không phải là một vấn đề từ thiện như người ta nghĩ.
Thứ 2 chúng ta cần phải gọi chính xác văn kiện ngày 10/12/1948 là Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập chứ không nên gọi là bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. "Phổ cập và quốc tế là khái niệm khác nhau. Sự lẫn lộn đưa tới hậu quả là một sai lầm không thể chấp nhận được. Khi nói Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền người ta coi nhân quyền là vấn đề giữa các quốc gia với nhau. Điều đó rất là sai. Vì nhân quyền là các quyền cá nhân. Chúng ta hãy đọc lại bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập. Không bao giờ họ đề cập đến quyền cuả các nhà nước. Họ chỉ đề cập quyền của các cá nhân mà thôi. Và vấn đề nhân quyền là một vấn đề phổ cập, nghĩa là một vấn đề mà mọi người, mọi định chế, mọi quốc gia phải tôn trọng ở mọi nơi, mọi lúc chứ không phải là một vấn đề trong bang giao giữa các quốc gia. Khi chúng ta nói bản "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" vô hình chung chúng ta coi nhân quyền là vấn đề giao thiệp giữa các nước và như vậy mỗi nước có thể giải thích quyền con người một cách tùy tiện theo sở thích của mình. Điều đó tai hại.
Tôi cho rằng nguyên nhân là trí thức Việt Nam không đầu tư nhiều vào tư tưởng chính trị cho nên chúng ta đã dịch Universal thành ra "quốc tế" nhưng Universal không bao giờ là "quốc tế" cả, nó có nghĩa là "phổ cập" nghĩa là đúng mọi nơi mọi lúc. Dịch cái gọi là The Universal Declaration of Human Rights hay Déclaration Universelle des Droits de l'homme thành "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" là sai. Phải dịch là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, nghĩa là các quyền con người phải được hiểu như nhau và tôn trọng ở mọi nơi, mọị lúc chứ không phải là chuyện giữa các quốc gia với nhau. Các quốc gia không được tự tiện giải thích nhân quyền theo ý của mình. Tôi nghĩ gọi tên là "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" không chỉ là một sai lầm mà là một sai lầm nguy hiểm. Nhân cuộc nói chuyện này tôi đề nghị một lần cho tất cả chúng ta đổi lại cho đúng tên của nó, chúng ta gọi một cách chính xác là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập".
Nhưng bên cạnh những tiến bộ lớn cũng phải cảnh giác vì cũng có nguy cơ, đặc biệt đối với người Việt Nam, bởi vì khi nhân quyền đã trở thành giá trị phổ cập, đã được nhìn nhận như một giá trị tự nhiên thì người ta không còn cảm thấy nhu cầu phải đào sâu để hiểu rõ hơn nữa, trong khi đó người Việt Nam chúng ta có khuyết điểm là rất thiếu sót về nhận thức chính trị. Nhưng chúng ta không thể bảo vệ một khái niệm khi chúng ta chưa hiểu rõ được, chúng ta sẽ hành động một cách thiếu thuyết phục và thiếu hiệu quả.
Tôi xin nêu một vài ngộ nhận lớn mà chúng ta chưa vượt qua được.
Thứ nhất là ngộ nhận cho rằng nhân quyền khác với dân chủ trong khi hai khái niệm này là một. Nhân quyền là một vấn đề chính trị chứ không phải là một vấn đề từ thiện như người ta nghĩ.
Thứ 2 chúng ta cần phải gọi chính xác văn kiện ngày 10/12/1948 là Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập chứ không nên gọi là bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. "Phổ cập và quốc tế là khái niệm khác nhau. Sự lẫn lộn đưa tới hậu quả là một sai lầm không thể chấp nhận được. Khi nói Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền người ta coi nhân quyền là vấn đề giữa các quốc gia với nhau. Điều đó rất là sai. Vì nhân quyền là các quyền cá nhân. Chúng ta hãy đọc lại bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập. Không bao giờ họ đề cập đến quyền cuả các nhà nước. Họ chỉ đề cập quyền của các cá nhân mà thôi. Và vấn đề nhân quyền là một vấn đề phổ cập, nghĩa là một vấn đề mà mọi người, mọi định chế, mọi quốc gia phải tôn trọng ở mọi nơi, mọi lúc chứ không phải là một vấn đề trong bang giao giữa các quốc gia. Khi chúng ta nói bản "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" vô hình chung chúng ta coi nhân quyền là vấn đề giao thiệp giữa các nước và như vậy mỗi nước có thể giải thích quyền con người một cách tùy tiện theo sở thích của mình. Điều đó tai hại.
Tôi cho rằng nguyên nhân là trí thức Việt Nam không đầu tư nhiều vào tư tưởng chính trị cho nên chúng ta đã dịch Universal thành ra "quốc tế" nhưng Universal không bao giờ là "quốc tế" cả, nó có nghĩa là "phổ cập" nghĩa là đúng mọi nơi mọi lúc. Dịch cái gọi là The Universal Declaration of Human Rights hay Déclaration Universelle des Droits de l'homme thành "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" là sai. Phải dịch là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, nghĩa là các quyền con người phải được hiểu như nhau và tôn trọng ở mọi nơi, mọị lúc chứ không phải là chuyện giữa các quốc gia với nhau. Các quốc gia không được tự tiện giải thích nhân quyền theo ý của mình. Tôi nghĩ gọi tên là "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" không chỉ là một sai lầm mà là một sai lầm nguy hiểm. Nhân cuộc nói chuyện này tôi đề nghị một lần cho tất cả chúng ta đổi lại cho đúng tên của nó, chúng ta gọi một cách chính xác là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập".
Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của của tất cả mọi người trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lí và hòa bình trên toàn thế giới.
Xét rằng: Việc xem thường và chà đạp quyền con người đã từng dẫn đến những hành động dã man, làm xúc động lương tâm nhân loại, việc xây dựng một thế giới trong đó mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi và nghèo đói phải được tuyên xưng như là ước vọng cao cả nhất của con người.
Xét rằng: Quyền con người cần được bảo vệ bằng pháp luật để đảm bảo rằng con người không bị bắt buộc phải sử dụng biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc cần được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Các dân tộc tham gia Liên hiệp quốc đã tái khẳng định trong Hiến chương niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và phẩm giá của mỗi cá nhân, vào quyền bình đẳng nam nữ và đã quyết định thúc đẩy tiến bộ xã hội cũng như cải thiện điều kiện sống trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên hiệp quốc nhằm góp phần cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản khác.
Xét rằng: Một nhận thức chung về đặc điểm của các quyền và quyền tự do có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực thi đầy đủ cam kết nêu trên.
Nay, ĐẠI HỘI ĐỒNG [Liên hiệp quốc] long trọng công bố TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN PHỔ CẬP như là tiêu chuẩn chung phải hướng tới cho tất cả mọi người và mọi quốc gia, để mỗi người, mỗi tổ chức xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, bằng con đường giảng dạy và học tập góp phần thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và quyền tự do và bảo đảm, bằng những biện pháp tiến bộ trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế, sự thừa nhận và thực thi một cách rộng khắp và hữu hiệu những quyền đó không chỉ đối với các dân tộc của các nước hội viên Liên hiệp quốc mà còn đối với các dân tộc thuộc quyền ủy trị của họ.
Điều 1:
Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi. Tất cả mọi người đều được tự nhiên phú cho lí trí và lương tâm và phải đối xử với nhau trong tinh thần bác ái.
Điều 2:
Mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay bất kì quan điểm nào khác, không phân biệt quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, đẳng cấp và địa vị xã hội khác, đều được hưởng các quyền và quyền tự do công bố trong Bản Tuyên Ngôn này.
Ngoài ra, không được phân biệt đối xử với con người trên cơ sở quy chế chính trị, pháp luật và địa vị quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó sống, cho dù lãnh thổ đó là độc lập, bị bảo hộ, không được tự trị hay bị những hạn chế nào khác về chủ quyền.
Điều 3:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể.
Điều 4:
Không người nào bị giữ trong tình trạng nô lệ hay mất tự do; chế độ nô lệ và buôn bán nô dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
Điều 5:
Không người nào phải chịu tra tấn, bị trừng phạt hay đối xử một cách vô nhân đạo và có tính cách lăng nhục.
Điều 6:
Mọi người, dù ở đâu, cũng đều có quyền được công nhận tư cách pháp lí của mình.
Điều 7:
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, không có bất kì sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ như nhau, chống lại mọi sự kì thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi sự khiêu khích dẫn đến kì thị như vậy.
Điều 8:
Mọi người đều có quyền đòi hỏi các tòa án quốc gia có thẩm quyền khôi phục một cách hữu hiệu các quyền của mình khi có các hành vi vi phạm các quyền căn bản do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Điều 9:
Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ hay lưu đày một cách độc đoán.
Điều 10:
Mọi người đều có quyền như nhau trong việc được xét xử một cách công khai và công bằng bởi một tòa án độc lập và vô tư để xác định các quyền và trách nhiệm cũng như những lời buộc tội chống lại mình.
Điều 11:
Mọi người, khi bị truy tố trước pháp luật, vẫn có quyền được coi là vô tội cho đến khi tội lỗi của người đó được chứng minh theo luật định trong một phiên tòa công khai với điều kiện người đó được cung cấp tất cả các đảm bảo cần thiết cho việc biện hộ.
Không ai có thể bị kết án do đã thực hiện hoặc không thực hiện những hành động mà lúc đó luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi đấy là tội ác. Cũng không được áp đặt hình phạt nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc tội ác xảy ra.
Điều 12:
Không ai có thể bị can thiệp một cách độc đoán vào đời sống cá nhân và gia đình, cũng như bị xâm phạm về nhà ở, bí mật thư tín hay danh dự và tiếng tăm của mình. Mỗi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp và xâm phạm như thế.
Điều 13:
Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong biên giới quốc gia.
Mọi người đều cóquy ền rời bỏ bất kì nước nào, kể cả nước mình và có quyền trở về xứ sở.
Điều 14:
Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm chỗ dung thân tại các quốc gia khác.
Quyền này không thể được áp dụng trong trường hợp bị truy nã thực sự vì phạm tôi không có tính chất chính trị hay do những hành vi đi ngược lại các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hiệp quốc.
Điều 15:
Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
Không ai có thể bị tước bỏ quốc tịch hay bị tước bỏ quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.
Điều 16:
Nam và nữ đến tuổi trưởng thành, không phân biệt chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia đình. Nam nữ có quyền như nhau khi kết hôn, trong đời sống vợ chồng và khi li hôn.
Hôn nhân chỉ có thể được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên.
Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội và có quyền được xã hội và nhà nước bảo vệ.
Điều 17:
Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản, cá nhân cũng như tập thể.
Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.
Điều 18:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng cũng như quyền tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng của mình với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay trong chỗ riêng tư bằng cách truyền dạy, thờ phụng, và thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Điều 19:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận; quyền này bao gồm quyền giữ quan điểm của mình mà không bị can thiệp và quyền tìm kiếm, nhận và quảng bá thông tin và tư tưởng bằng mọi phương tiện, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia.
Điều 20:
Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa.
Không ai có thể bị ép buộc tham gia vào bất kì hội đoàn nào.
Điều 21:
Mọi người đều có quyền tham gia quản lí đất nước của mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu được lựa chọn một cách tự do.
Mọi người đều có quyền như nhau trong việc nhận lãnh chức vụ trong các cơ quan nhà nước của mình.
Ý chí của nhân dân phải là nền tảng quyền lực của chính phủ; ý chí này phải được thể hiện thông qua các cuộc bầu cử định kì và trung thực, được tiến hành theo phương thức phổ thông và bình đẳng, bỏ phiếu kín hay bằng các hình thức bầu cử tự do tương đương khác.
Điều 22:
Là một thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an sinh xã hội và thực hiện các quyền thiết yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua các nỗ lực của quốc gia và hợp tác quốc tế, phù hợp với cơ cấu và tài nguyên của mỗi nước để bảo vệ nhân phẩm và sự phát triển tự do của cá nhân mình.
Điều 23:
Mọi người đều có quyền lao động, quyền tự do lựa chọn công việc, quyền có các điều kiện lao động công bằng và thuận lợi và quyền được bảo vệ khỏi nạn thất nghiệp.
Mọi người, không phân biệt, nếu làm việc giống nhau thì đều được trả lương như nhau.
Mọi người lao động đều có quyền được nhận thù lao công bằng và thích hợp, đảm bảo cho bản thân và gia đình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm và được trợ giúp thông qua các phương tiện an sinh xã hội khác, khi cần.
Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
Điều 24:
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả quyền giới hạn số giờ làm việc một cách hợp lí và quyền được nghỉ định kì được trả lương.
Điều 25:
Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp bao gồm thức ăn, quần áo mặc, nhà ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác nhằm đảm bảo sức khỏe và hạnh phúc cho bản thân và gia đình, có quyền an sinh xã hội trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già lão hoặc các trường hợp mất phương tiện kiếm sống khác vì những hoàn cảnh nằm ngoài khả năng kiểm soát của mình.
Bà mẹ và trẻ em được quyền chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Tất cả trẻ em, trong hay ngoài giá thú, đều được xã hội bảo vệ như nhau.
Điều 26:
Mọi người đều có quyền đi học. Học tập phải được miễn phí, chí ít là đối với bậc tiểu học và cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc. Các trường kĩ thuật và dạy nghề phải mở rộng cửa cho mọi người, các trường đại học cũng phải mở rộng cửa một cách bình đẳng trên cơ sở tài năng của mỗi người.
Giáo dục phải nhằm phát triển con người toàn diện và thúc đẩy sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc, giữa các nhóm sắc tộc và tôn giáo và hộ trợ hoạt động của Liên hiệp quốc trong việc duy trì hòa bình.
Cha mẹ có quyền ưu tiên trong việc lựa chọn hình thức học tập cho các con nhỏ của mình.
Điều 27:
Mọi người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, có quyền thưởng thức nghệ thuật, tham gia vào tiến trình phát triển của khoa học và hưởng thụ các thành quả của nó.
Mọi người có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất cũng như tinh thần của các tác phẩm khoa học, văn chương hay nghệ thuật mà người đó là tác giả.
Điều 28:
Mọi người đều có quyền được sống trong một trật tự xã hội và quốc tế, trong đó các quyền và quyền tự do được tuyên cáo trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện một cách đầy đủ.
Điều 29:
Mọi người đều có trách nhiệm đối với cộng đồng mà chỉ trong đó nhân cách của họ mới có điều kiện phát triển một cách tự do và toàn diện.
Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định chỉ với mục đích duy nhất là bảo đảm sự công nhận và tôn trọng các quyền và quyền tự do của những người khác, cũng như thỏa mãn các đòi hỏi chính đáng về luân lí, trật tự cộng cộng và phúc lợi chung của xã hội dân chủ.
Việc thực hiện các quyền và quyền tự do này, trong bất kì trường hợp nào, cũng không được đi ngược lại các mục đích và nguyên tắc của Liên hiệp quốc.
Điều 30:
Không một điều khoản nào trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được diễn giải như là sự cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân bất kì tham gia vào những việc hay có những hành động nhằm phá hoại các quyền và quyền tự do được tuyên cáo trong Bản Tuyên Ngôn này.
Phụ lục tác phẩm Chế độ dân chủ - Nhà nước và xã hội, dịch từ nguyên bản tiếng Nga, do NXB Tri Thức ấn hành năm 2009.
(Có tham khảo bản tiếng Anh văn tại địa chỉ: UN)
Xét rằng: Việc xem thường và chà đạp quyền con người đã từng dẫn đến những hành động dã man, làm xúc động lương tâm nhân loại, việc xây dựng một thế giới trong đó mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi và nghèo đói phải được tuyên xưng như là ước vọng cao cả nhất của con người.
Xét rằng: Quyền con người cần được bảo vệ bằng pháp luật để đảm bảo rằng con người không bị bắt buộc phải sử dụng biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc cần được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Các dân tộc tham gia Liên hiệp quốc đã tái khẳng định trong Hiến chương niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và phẩm giá của mỗi cá nhân, vào quyền bình đẳng nam nữ và đã quyết định thúc đẩy tiến bộ xã hội cũng như cải thiện điều kiện sống trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên hiệp quốc nhằm góp phần cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản khác.
Xét rằng: Một nhận thức chung về đặc điểm của các quyền và quyền tự do có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực thi đầy đủ cam kết nêu trên.
Nay, ĐẠI HỘI ĐỒNG [Liên hiệp quốc] long trọng công bố TUYÊN NGÔN VỀ NHÂN QUYỀN PHỔ CẬP như là tiêu chuẩn chung phải hướng tới cho tất cả mọi người và mọi quốc gia, để mỗi người, mỗi tổ chức xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, bằng con đường giảng dạy và học tập góp phần thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và quyền tự do và bảo đảm, bằng những biện pháp tiến bộ trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế, sự thừa nhận và thực thi một cách rộng khắp và hữu hiệu những quyền đó không chỉ đối với các dân tộc của các nước hội viên Liên hiệp quốc mà còn đối với các dân tộc thuộc quyền ủy trị của họ.
Điều 1:
Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi. Tất cả mọi người đều được tự nhiên phú cho lí trí và lương tâm và phải đối xử với nhau trong tinh thần bác ái.
Điều 2:
Mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay bất kì quan điểm nào khác, không phân biệt quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, đẳng cấp và địa vị xã hội khác, đều được hưởng các quyền và quyền tự do công bố trong Bản Tuyên Ngôn này.
Ngoài ra, không được phân biệt đối xử với con người trên cơ sở quy chế chính trị, pháp luật và địa vị quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó sống, cho dù lãnh thổ đó là độc lập, bị bảo hộ, không được tự trị hay bị những hạn chế nào khác về chủ quyền.
Điều 3:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể.
Điều 4:
Không người nào bị giữ trong tình trạng nô lệ hay mất tự do; chế độ nô lệ và buôn bán nô dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
Điều 5:
Không người nào phải chịu tra tấn, bị trừng phạt hay đối xử một cách vô nhân đạo và có tính cách lăng nhục.
Điều 6:
Mọi người, dù ở đâu, cũng đều có quyền được công nhận tư cách pháp lí của mình.
Điều 7:
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, không có bất kì sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ như nhau, chống lại mọi sự kì thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi sự khiêu khích dẫn đến kì thị như vậy.
Điều 8:
Mọi người đều có quyền đòi hỏi các tòa án quốc gia có thẩm quyền khôi phục một cách hữu hiệu các quyền của mình khi có các hành vi vi phạm các quyền căn bản do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Điều 9:
Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ hay lưu đày một cách độc đoán.
Điều 10:
Mọi người đều có quyền như nhau trong việc được xét xử một cách công khai và công bằng bởi một tòa án độc lập và vô tư để xác định các quyền và trách nhiệm cũng như những lời buộc tội chống lại mình.
Điều 11:
Mọi người, khi bị truy tố trước pháp luật, vẫn có quyền được coi là vô tội cho đến khi tội lỗi của người đó được chứng minh theo luật định trong một phiên tòa công khai với điều kiện người đó được cung cấp tất cả các đảm bảo cần thiết cho việc biện hộ.
Không ai có thể bị kết án do đã thực hiện hoặc không thực hiện những hành động mà lúc đó luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi đấy là tội ác. Cũng không được áp đặt hình phạt nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc tội ác xảy ra.
Điều 12:
Không ai có thể bị can thiệp một cách độc đoán vào đời sống cá nhân và gia đình, cũng như bị xâm phạm về nhà ở, bí mật thư tín hay danh dự và tiếng tăm của mình. Mỗi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp và xâm phạm như thế.
Điều 13:
Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong biên giới quốc gia.
Mọi người đều cóquy ền rời bỏ bất kì nước nào, kể cả nước mình và có quyền trở về xứ sở.
Điều 14:
Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm chỗ dung thân tại các quốc gia khác.
Quyền này không thể được áp dụng trong trường hợp bị truy nã thực sự vì phạm tôi không có tính chất chính trị hay do những hành vi đi ngược lại các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hiệp quốc.
Điều 15:
Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
Không ai có thể bị tước bỏ quốc tịch hay bị tước bỏ quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.
Điều 16:
Nam và nữ đến tuổi trưởng thành, không phân biệt chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia đình. Nam nữ có quyền như nhau khi kết hôn, trong đời sống vợ chồng và khi li hôn.
Hôn nhân chỉ có thể được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên.
Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội và có quyền được xã hội và nhà nước bảo vệ.
Điều 17:
Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản, cá nhân cũng như tập thể.
Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.
Điều 18:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng cũng như quyền tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng của mình với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay trong chỗ riêng tư bằng cách truyền dạy, thờ phụng, và thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Điều 19:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận; quyền này bao gồm quyền giữ quan điểm của mình mà không bị can thiệp và quyền tìm kiếm, nhận và quảng bá thông tin và tư tưởng bằng mọi phương tiện, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia.
Điều 20:
Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa.
Không ai có thể bị ép buộc tham gia vào bất kì hội đoàn nào.
Điều 21:
Mọi người đều có quyền tham gia quản lí đất nước của mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu được lựa chọn một cách tự do.
Mọi người đều có quyền như nhau trong việc nhận lãnh chức vụ trong các cơ quan nhà nước của mình.
Ý chí của nhân dân phải là nền tảng quyền lực của chính phủ; ý chí này phải được thể hiện thông qua các cuộc bầu cử định kì và trung thực, được tiến hành theo phương thức phổ thông và bình đẳng, bỏ phiếu kín hay bằng các hình thức bầu cử tự do tương đương khác.
Điều 22:
Là một thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an sinh xã hội và thực hiện các quyền thiết yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua các nỗ lực của quốc gia và hợp tác quốc tế, phù hợp với cơ cấu và tài nguyên của mỗi nước để bảo vệ nhân phẩm và sự phát triển tự do của cá nhân mình.
Điều 23:
Mọi người đều có quyền lao động, quyền tự do lựa chọn công việc, quyền có các điều kiện lao động công bằng và thuận lợi và quyền được bảo vệ khỏi nạn thất nghiệp.
Mọi người, không phân biệt, nếu làm việc giống nhau thì đều được trả lương như nhau.
Mọi người lao động đều có quyền được nhận thù lao công bằng và thích hợp, đảm bảo cho bản thân và gia đình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm và được trợ giúp thông qua các phương tiện an sinh xã hội khác, khi cần.
Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
Điều 24:
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả quyền giới hạn số giờ làm việc một cách hợp lí và quyền được nghỉ định kì được trả lương.
Điều 25:
Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp bao gồm thức ăn, quần áo mặc, nhà ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác nhằm đảm bảo sức khỏe và hạnh phúc cho bản thân và gia đình, có quyền an sinh xã hội trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già lão hoặc các trường hợp mất phương tiện kiếm sống khác vì những hoàn cảnh nằm ngoài khả năng kiểm soát của mình.
Bà mẹ và trẻ em được quyền chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Tất cả trẻ em, trong hay ngoài giá thú, đều được xã hội bảo vệ như nhau.
Điều 26:
Mọi người đều có quyền đi học. Học tập phải được miễn phí, chí ít là đối với bậc tiểu học và cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc. Các trường kĩ thuật và dạy nghề phải mở rộng cửa cho mọi người, các trường đại học cũng phải mở rộng cửa một cách bình đẳng trên cơ sở tài năng của mỗi người.
Giáo dục phải nhằm phát triển con người toàn diện và thúc đẩy sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc, giữa các nhóm sắc tộc và tôn giáo và hộ trợ hoạt động của Liên hiệp quốc trong việc duy trì hòa bình.
Cha mẹ có quyền ưu tiên trong việc lựa chọn hình thức học tập cho các con nhỏ của mình.
Điều 27:
Mọi người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, có quyền thưởng thức nghệ thuật, tham gia vào tiến trình phát triển của khoa học và hưởng thụ các thành quả của nó.
Mọi người có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất cũng như tinh thần của các tác phẩm khoa học, văn chương hay nghệ thuật mà người đó là tác giả.
Điều 28:
Mọi người đều có quyền được sống trong một trật tự xã hội và quốc tế, trong đó các quyền và quyền tự do được tuyên cáo trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện một cách đầy đủ.
Điều 29:
Mọi người đều có trách nhiệm đối với cộng đồng mà chỉ trong đó nhân cách của họ mới có điều kiện phát triển một cách tự do và toàn diện.
Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định chỉ với mục đích duy nhất là bảo đảm sự công nhận và tôn trọng các quyền và quyền tự do của những người khác, cũng như thỏa mãn các đòi hỏi chính đáng về luân lí, trật tự cộng cộng và phúc lợi chung của xã hội dân chủ.
Việc thực hiện các quyền và quyền tự do này, trong bất kì trường hợp nào, cũng không được đi ngược lại các mục đích và nguyên tắc của Liên hiệp quốc.
Điều 30:
Không một điều khoản nào trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được diễn giải như là sự cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân bất kì tham gia vào những việc hay có những hành động nhằm phá hoại các quyền và quyền tự do được tuyên cáo trong Bản Tuyên Ngôn này.
Phụ lục tác phẩm Chế độ dân chủ - Nhà nước và xã hội, dịch từ nguyên bản tiếng Nga, do NXB Tri Thức ấn hành năm 2009.
(Có tham khảo bản tiếng Anh văn tại địa chỉ: UN)
Đăng nhận xét