I. Tên trường có trước hay xây dựng trường trước – học trước?
Một buổi chiều cuối tháng 6/1972, tôi đang thu tranh, tre để chuẩn bị cho năm học 1972-1973 của trường cấp 3 Kỳ Anh.Thầy và trò đang làm việc dưới bóng phi lao trước cửa văn phòng nhà trường tại xã Kỳ Văn.Tôi thấy một người đi chiếc xe đạp favorit vào phòng làm việc của thầy hiệu trưởng Lê Văn Khánh.Khoảng 30 phút sau thầy Khánh ra chổ thầy trò đang ngồi, sau vài câu hỏi thăm, thầy Khánh nói: “Huyện ủy, ủy ban mới có quyết định một số vấn đề trong năm học mới, đồng chí chủ tịch vừa sang, mời anh vào cùng tiếp thu.”
Thầy Khánh bảo tôi ở lại. Thầy Khánh nói: “bây giờ các thầy giáo về nghỉ hè chưa đến trường, các thầy trong cấp ủy cũng đang nghỉ hè cả (thầy Mỹ - bí thư chi bộ, thầy Ngô - thư ký công đoàn), anh bàn giao sổ sách về số vật liệu đã thu được để ngày mai ra ngoài đó làm công tác chuẩn bị”.
Vì trường cấp 3 Kỳ Anh đã đóng ở vùng Kỳ Giang, Kỳ Tiến từ những năm 1965 nên thầy Khánh rất thông thạo địa bàn các xã phía bắc.Thầy Khánh phân tích :“ xã Kỳ Phong thì nằm trên quốc lộ 1A, không đặt trường được, xã Kỳ Bắc thì có trạm trung chuyển của bộ đội, chỉ còn lại xã Kỳ Tiến. Trong xã Kỳ Tiến thì xóm Quyết Tiến các đơn vị vận chuyển thường giấu xe ở đó, nếu lở máy bay địch phát hiện thì rất nguy hiểm, còn hai xóm Kim Tiến và Hoàng Diệu là có thể đặt trường được. Anh ra ngoài đó xin ý kiến và nhờ ủy ban xã giúp đở xin đia điểm đặt một số lớp từ trường cấp 3 Kỳ Anh tách ra. Anh ra chuẩn bị trước vài hôm sau tôi ra”. Để tránh máy bay địch, hôm sau tôi ra Kỳ Tiến rất sớm.Đầu tiên tôi ra gặp cố Trâm Ngôn ở xóm Quyết Tiến,( Cố Trâm Ngôn mấy năm trước là hội trưởng phụ huynh học sinh của trường cấp III Kỳ Anh). Sau khi nghe tôi trình bày mục đích và nội dung mà tôi ra đây, cố Trâm Ngôn rất nhiệt tình, cố đưa ra mấy vị trí để nghiên cứu. Cố nói : “phải tìm chổ nào để học sinh đi về được nhiều đường, phân tán nhanh, không bị lộ mục tiêu”. Chiều hôm đó cố Trâm Ngôn cùng tôi đến ủy ban xã Kỳ Tiến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày những nội dung mà nhà trường nhờ giúp đở, một đồng chí trong ủy ban nói : “Vấn đề này chúng tôi đã nhận được chỉ thi của huyện ủy rồi, bây giờ ta cùng bàn đặt địa điểm ở đâu cho thích hợp, có tập thể ở đây ta cùng trao đổi cụ thể”. Sau khi bàn bạc, ủy ban xã cử một đồng chí cùng tôi xuống xóm Hoàng Diệu để chọn vị trí. Để đảm bảo an toàn chúng tôi chọn 3 vị trí để làm 3 lán học ở phía sau của xóm Hoàng Diệu.
Ngày hôm sau tôi lại trở về trường sớm để báo cáo kết quả làm việc với thầy hiệu trưởng. Thầy Khánh nói : “Tôi định chiều nay ra ngoài đó, nhưng anh đã làm được như vậy là tốt rồi, tôi không phải ra ngoài đó nữa. Việc tìm được 3 địa điểm là rất tốt, tuy chưa thống kê số lượng học sinh lớp 9 và lớp 10 ở các xã phía bắc là bao nhiêu nhưng chắc chắn không quá 3 lớp, nếu tuyển thêm học sinh lớp 8 nữa tối đa cũng chỉ 6 lớp, có 3 lán, học ngày hai buổi như vậy là vừa”.Vì sợ máy bay địch phát hiện, không thể huy động lao động tập trung nên phải mất khoảng 10 ngày học sinh của bốn xã Kỳ Tiến, Kỳ Giang, Kỳ Phong, Kỳ Bắc thay nhau đào hạ thấp đất, đắp lủy xung quanh mới làm xong mặt bằng một lán học. Cuối buổi chiều một ngày đầu tháng 7/1972 khi tôi đang nhận xét tinh thần làm việc trong ngày và bố trí lao động ngày hôm sau thị nhận được thư của thầy Dương Ngô từ một học sinh của trường Kỳ Anh đưa tới (em Đào Thị Minh học sinh lớp 9). Nói là thư nhưng thực ra chỉ là một mảnh giấy nhỏ trên đó ghi bằng bút chì có nội dung : “ Tỉnh có quyết định thành lập trường mới, anh về trường làm việc”. Số giáo viên trường Kỳ Anh chuyển ra trường mới trước (nói là trường mới vì chưa có tên trường) gồm có Tôi và thầy Phan Lương dạy toán, thầy Lê Sỹ Châu dạy sinh vật, thầy Biện Văn Thạch, thầy Nguyễn Phùng Nhị, cô Nguyễn Thị Thường dạy văn. Mấy hôm sau thầy Đặng Vượng và các thầy : thầy Lạc (dạy địa lý),thầy Oanh ( dạy hóa), thầy Túy ( dạy toán), thầy Hiến ( dạy sử), cô Thao (cấp dưởng ) lần lượt chuyển về trường mới.Trong số giáo viên, cán bộ về trường mới lúc đó có hai người là đảng viên đó là thầy Đặng Vượng và thầy Phùng Nhị.Thầy Đặng Vượng là đảng viên lâu năm lại đã từng công tác ở miền nam nên đảm nhiệm công tác nhà trường. Từ đó thầy Vượng làm việc như một hiệu trưởng, từ phân công giáo viên phụ trách lớp, phụ trách lao động, phụ trách thu vật liệu, liên hệ với ủy ban các xã, ủy ban huyện…vv. Một lảnh đạo anh em tự suy tôn nhưng giáo viên và học sinh rất tuân thủ, làm việc vô tư và vui vẻ lắm. Đến cuối tháng 9 thì đã làm xong được 3 lán để học và một nhà ăn tập thể. Bàn ghế và sách giáo khoa chưa có nên lại phải vào mượn của trương cấp 3 Kỳ Anh.Vì ngày đó trong số giáo viên ở trường mới chỉ mình tôi có xe đạp nên tôi được “ưu tiên” về trường cấp 3 Kỳ Anh liên hệ. Thầy Khánh cho mượn 30 bộ bàn ghế, 23 bộ sách giáo khoa (đủ cho 3 khối) để thầy cô giáo có tài liệu giảng dạy. Lúc đó thầy Khánh nói vui : “Anh phải viết giấy mượn vì bây giờ là trường anh, trường tôi rồi, không phải trường chúng ta nữa”, nhưng sau này trong một lần tôi có dịp về trường Kỳ Anh tôi nhắc lại chuyện tôi đang nợ thầy bàn ghế và sách giáo khoa thầy lại nói: “coi như của chia cho con ở riêng mà”. Vì trường cấp 3 Kỳ Anh đã đóng ở vùng Kỳ Giang, Kỳ Tiến từ những năm 1965 nên thầy Khánh rất thông thạo địa bàn các xã phía bắc.Thầy Khánh phân tích :“ xã Kỳ Phong thì nằm trên quốc lộ 1A, không đặt trường được, xã Kỳ Bắc thì có trạm trung chuyển của bộ đội, chỉ còn lại xã Kỳ Tiến. Trong xã Kỳ Tiến thì xóm Quyết Tiến các đơn vị vận chuyển thường giấu xe ở đó, nếu lở máy bay địch phát hiện thì rất nguy hiểm, còn hai xóm Kim Tiến và Hoàng Diệu là có thể đặt trường được. Anh ra ngoài đó xin ý kiến và nhờ ủy ban xã giúp đở xin đia điểm đặt một số lớp từ trường cấp 3 Kỳ Anh tách ra. Anh ra chuẩn bị trước vài hôm sau tôi ra”. Để tránh máy bay địch, hôm sau tôi ra Kỳ Tiến rất sớm.Đầu tiên tôi ra gặp cố Trâm Ngôn ở xóm Quyết Tiến,( Cố Trâm Ngôn mấy năm trước là hội trưởng phụ huynh học sinh của trường cấp III Kỳ Anh). Sau khi nghe tôi trình bày mục đích và nội dung mà tôi ra đây, cố Trâm Ngôn rất nhiệt tình, cố đưa ra mấy vị trí để nghiên cứu. Cố nói : “phải tìm chổ nào để học sinh đi về được nhiều đường, phân tán nhanh, không bị lộ mục tiêu”. Chiều hôm đó cố Trâm Ngôn cùng tôi đến ủy ban xã Kỳ Tiến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày những nội dung mà nhà trường nhờ giúp đở, một đồng chí trong ủy ban nói : “Vấn đề này chúng tôi đã nhận được chỉ thi của huyện ủy rồi, bây giờ ta cùng bàn đặt địa điểm ở đâu cho thích hợp, có tập thể ở đây ta cùng trao đổi cụ thể”. Sau khi bàn bạc, ủy ban xã cử một đồng chí cùng tôi xuống xóm Hoàng Diệu để chọn vị trí. Để đảm bảo an toàn chúng tôi chọn 3 vị trí để làm 3 lán học ở phía sau của xóm Hoàng Diệu.
Thầy giáo Nguyễn Ngọc Châu |
Việc đưa được 30 bộ bàn ghế và sách giáo khoa từ trường cấp 3 Kỳ Anh về trường mới lúc đó không hề đơn giản vì phương tiện vận chuyển không có, hạ tầng giao thông khó khăn và phải vận chuyển vào ban đêm để tránh máy bay giặc.Tôi phải thuê anh Xoan (anh Xoan là lao công của trường cấp 3 Kỳ Anh) hết 30 đồng ( ba mươi đồng), anh Xoan huy động thêm 3 người nữa mới chuyển hết số bàn ghế và sách giáo khoa ra ngay trong đêm hôm đó.
Vì vừa học vừa phải đào hào làm hầm trú ẩn nên học sinh lớp 10 là lớp cuối cấp, được ưu tiên học liên tục từ cuối tháng 9 còn học sinh lớp 8 và lớp 9 phải vừa học vừa lao động đào hào làm hầm.
Đến giữa tháng 10/1972 thầy Trần Mậu Chước nhận quyết đinh của Ty giáo dục Hà Tĩnh về làm hiệu trưởng nhà trường và mang quyết đinh của tỉnh thành lập trường lấy tên là trường cấp III Nguyễn Huệ. Như vậy lich sử ra đời của trường Nguyễn Huệ là làm trường trước, học trước rồi sau đó mới có tên trường.
II. Trường Nguyễn Huệ khai giảng lần đầu tiên vào ngày, tháng, năm nào?
Cuối tháng 9/1972 học sinh lớp 10 được ưu tiên học liên tục, còn học sinh lớp 8, lớp 9 thì học được 2,3 ngày lại nghỉ để lao động củng cố đào hào làm hầm nên thời gian nghỉ nhiều hơn thời gian học. Mãi đến tối ngày 4/12/1972 họp hội đồng tại phòng học lớp 9B-8B mới quyết định khai giảng vào ngày 6/12/1972. Lúc họp xong mở đài radio thì đã nghe đồng chí thứ trưởng bộ giáo dục lúc đó (hình như là ông Võ Thuần Nho) đọc kế hoạch sơ kết học kỳ I năm học 1972 – 1973.
III. Lời kết:
Nhớ lại những ngày đầu của trường còn nhiều kỷ niệm lắm , như chuyện mua cái đài Orionton và 20 cái loa kim từ Thạch tiến về,chuyện tất cả các thầy cô băng mình giữa trời mưa to, gió lớn vào Kỳ Tân nhập hộ khẩu, chuyện liên hoan các thầy chuyển từ ăn chung với dân ra ăn bếp ăn tập thể vv….
Mới ngày nào sơ khai mà nay đã 45 năm. Bao nhiêu kỷ niệm lại hiện về rỏ nét. Số thầy cô giáo năm đầu tiên giờ còn gắn với nghề có thầy Tứ dạy ở Đức Thọ, thầy Túy làm hiệu trưởng trường PTTH Nguyễn Thị Bích Châu ở Kỳ Anh, số còn lại đã nghỉ hưu. Thương tiếc các thầy :Thầy Thạch, thầy Lương, thầy Niêm, thầy Nhị không còn sống nữa .
Nhìn thấy sự trưởng thành của trường về mọi mặt hôm nay,những thành quả lớn lao mà các thế hệ thầy giáo và học sinh lớp sau đã nổ lực phấn đấu đạt được, bản thân tôi cũng có chút tự hào về ngôi trường mà cách đây 40 năm lúc buổi mới thành lập trường mình đã góp chút sức xây dựng và giảng dạy. Hy vọng rằng thầy và trò thế hệ hôm nay và mai sau tiếp tục phấn đấu để trường Nguyễn Huệ luôn phát triển xứng đáng với ngôi trường mang tên vị anh hùng dân tộc.
Đăng nhận xét